Itō Hirobumi
Là Chính khách người Nhật Bản, Toàn quyền Triều Tiên, Thủ tướng Nhật Bản đầu tiên, thứ 5, thứ 7 và thứ 10 và là một nguyên lão. Đồng thời là một trong các công thần khai quốc thời Minh Trị / From Wikipedia, the free encyclopedia
Itō Hirobumi (伊藤 博文 (Y Đằng Bác Văn), Itō Hirobumi?) (16 tháng 10 năm 1841 – 26 tháng 10 năm 1909, cũng được gọi là Hirofumi/Hakubun và Shunsuke thời trẻ) là một chính khách người Nhật, Toàn quyền Triều Tiên, bốn lần là Thủ tướng Nhật Bản (thứ 1, 5, 7 và 10) và là một nguyên lão. Itō bị ám sát bởi An Trọng Căn, một nhà cách mạng Triều Tiên chống lại sự sáp nhập Triều Tiên vào Đế quốc Nhật Bản. Trớ trêu thay, cái chết của Itō đã làm đẩy nhanh quá trình cuối cùng của việc chinh phục Triều Tiên.
Bài viết này là một bản dịch thô từ ngôn ngữ khác. Đây có thể là kết quả của máy tính hoặc của người chưa thông thạo dịch thuật. |
Itō Hirobumi | |||||
---|---|---|---|---|---|
伊藤 博文 | |||||
Itō năm 1909 | |||||
Chủ tịch Hội đồng Cơ mật | |||||
Nhiệm kỳ 30 tháng 4 năm 1888 – 30 tháng 10 năm 1889 1 năm, 183 ngày | |||||
Thiên hoàng | Minh Trị | ||||
Tiền nhiệm | Chức vụ được thành lập | ||||
Kế nhiệm | Oki Takato | ||||
Nhiệm kỳ 1 tháng 6 năm 1891 – 8 tháng 8 năm 1892 1 năm, 68 ngày | |||||
Tiền nhiệm | Oki Takato | ||||
Kế nhiệm | Oki Takato | ||||
Nhiệm kỳ 13 tháng 7 năm 1903 – 21 tháng 12 năm 1905 2 năm, 161 ngày | |||||
Tiền nhiệm | Saionji Kinmochi | ||||
Kế nhiệm | Yamagata Aritomo | ||||
Nhiệm kỳ 14 tháng 6 năm 1909 – 26 tháng 10 năm 1909 134 ngày | |||||
Tiền nhiệm | Yamagata Aritomo | ||||
Kế nhiệm | Yamagata Aritomo | ||||
Thủ tướng thứ 1, 5, 7, 10 của Nhật Bản [1] | |||||
Nhiệm kỳ 19 tháng 10 năm 1900 – 10 tháng 5 năm 1901 203 ngày | |||||
Thiên hoàng | Minh Trị | ||||
Tiền nhiệm | Yamagata Aritomo | ||||
Kế nhiệm | Saionji Kinmochi (Quyền) | ||||
Nhiệm kỳ 12 tháng 1 năm 1898 – 30 tháng 6 năm 1898 169 ngày | |||||
Tiền nhiệm | Matsukata Masayoshi | ||||
Kế nhiệm | Ōkuma Shigenobu | ||||
Nhiệm kỳ 8 tháng 8 năm 1892 – 31 tháng 8 năm 1896 4 năm, 23 ngày | |||||
Tiền nhiệm | Matsukata Masayoshi | ||||
Kế nhiệm | Kuroda Kiyotaka (Quyền) | ||||
Nhiệm kỳ 22 tháng 12 năm 1885 – 30 tháng 4 năm 1888 2 năm, 130 ngày | |||||
Tiền nhiệm | Chức vụ được thành lập | ||||
Kế nhiệm | Kuroda Kiyotaka | ||||
Bộ trưởng Ngoại giao | |||||
Nhiệm kỳ tháng 9 năm 1887 – tháng 2 năm 1888 | |||||
Thiên hoàng | Minh Trị | ||||
Tiền nhiệm | Inoue Kaoru | ||||
Kế nhiệm | Ōkuma Shigenobu | ||||
Thống sứ của Triều Tiên | |||||
Nhiệm kỳ 21 tháng 12 năm 1905 – 14 tháng 6 năm 1909 3 năm, 175 ngày | |||||
Thiên hoàng | Minh Trị | ||||
Tiền nhiệm | Chức vụ được thành lập | ||||
Kế nhiệm | Sone Arasuke | ||||
Thông tin cá nhân | |||||
Sinh | Hayashi Risuke 16 tháng 10 năm 1841 Tsukari, Yamaguchi, Nhật Bản | ||||
Mất | 26 tháng 10 năm 1909 (68 tuổi) Cáp Nhĩ Tân, Hắc Long Giang, Đại Thanh | ||||
Nơi an nghỉ | Nghĩa trang Hirobumi Ito, Tokyo, Nhật Bản | ||||
Đảng chính trị | Độc lập (Trước năm 1900) Hiệp hội Lập hiến về Hữu nghị Chính trị (1900–1909) | ||||
Phối ngẫu | Itō Umeko | ||||
Con cái | ba con trai, hai con gái | ||||
Cha | Itō Jūzō | ||||
Alma mater | Shoka Sonjuku Đại học London | ||||
Chữ ký | |||||
Tên tiếng Nhật | |||||
Kanji | 伊藤 博文 | ||||
Hiragana | いとう ひろぶみ | ||||
Katakana | イトウ ヒロブミ | ||||
| |||||
Là một samurai được đào tạo ở London của Miền Chōshū và là nhân vật trung tâm trong Phục hồi Minh Trị, Itō Hirobumi đã chủ trì văn phòng soạn thảo Hiến pháp cho chính quyền mới thành lập. Đế quốc Nhật Bản. Nhìn vào phương Tây để lấy cảm hứng, Itō cũng bác bỏ Hiến pháp Hoa Kỳ tự do và Phục hồi Tây Ban Nha cũng vậy chuyên quyền. Thay vào đó, ông dựa trên các mô hình của Anh và Đức, đặc biệt là Hiến pháp Phổ năm 1850. Không hài lòng với sự phổ biến của Cơ đốc giáo trong tiền lệ pháp lý châu Âu, ông đã thay thế những tài liệu tham khảo tôn giáo như vậy bằng những tài liệu tham khảo bắt nguồn từ khái niệm truyền thống hơn của Nhật Bản về một kokutai hay "chính thể quốc gia" do đó đã trở thành sự biện minh hợp hiến cho quyền lực của đế quốc.
Trong những năm 1880, Itō nổi lên như nhân vật hàng đầu trong chính quyềm Minh Trị.[2][3][4] Đến năm 1885, ông trở thành Thủ tướng đầu tiên của Nhật Bản, vị trí mà ông đã giữ bốn lần (qua đó khiến nhiệm kỳ của ông trở thành một trong dài nhất trong lịch sử Nhật Bản). Ngay cả khi không còn giữ chức vụ người đứng đầu chính phủ của quốc gia, ông vẫn tiếp tục có ảnh hưởng to lớn đối với các chính sách của Nhật Bản với tư cách là cố vấn thường trực của đế quốc, hay genkun, và Chủ tịch Hội đồng cơ mật. Là một người trung thành với Chủ nghĩa quân chủ, Itō ủng hộ một bộ máy quan liêu lớn, toàn năng, chỉ trả lời cho Thiên hoàng và phản đối việc thành lập đảng chính trị. Nhiệm kỳ thủ tướng thứ ba của ông kết thúc vào năm 1898 do phe đối lập sáp nhập vào đảng Kenseitō (Đồng chí hội), thúc đẩy ông thành lập đảng Rikken Seiyūkai để chống lại sự trỗi dậy của đảng này. Năm 1901, ông từ chức chức vụ thứ tư và cũng là chức vụ cuối cùng do quá mệt mỏi với chính trị đảng phái.
Trên trường thế giới, Itō chủ trì một chính sách đối ngoại đầy tham vọng. Ông tăng cường quan hệ ngoại giao với các cường quốc phương Tây bao gồm Đức, Hoa Kỳ và đặc biệt Liên hiệp Hoa Kỳ Vương quốc Anh. Ở châu Á, ông giám sát Chiến tranh Trung-Nhật lần thứ nhất và đàm phán về việc đầu hàng nhà Thanh của Trung Quốc theo các điều khoản có lợi tích cực cho Nhật Bản, bao gồm cả Đài Loan và giải phóng Triều Tiên khỏi Hệ thống triều cống của Hoàng gia Trung Quốc. Trong khi mở rộng yêu sách của đất nước mình ở châu Á, Itō tìm cách tránh xung đột với Đế quốc Nga thông qua chính sách Man-Kan kōkan - đề xuất Mãn Châu đầu hàng trước phạm vi ảnh hưởng của Nga để đổi lấy để công nhận quyền bá chủ của Nhật Bản tại Hàn Quốc. Tuy nhiên, trong chuyến thăm ngoại giao tới Saint Petersburg vào tháng 11 năm 1901, Itō nhận thấy chính quyền Nga hoàn toàn không chấp nhận những điều khoản như vậy. Do đó, thủ tướng đương nhiệm của Nhật Bản, Katsura Tarō, đã quyết định từ bỏ việc theo đuổi Man-Kan kōkan, dẫn đến căng thẳng leo thang lên đến đỉnh điểm là Chiến tranh Nga-Nhật.
Sau khi quân Nhật giành chiến thắng trước Nga, Hiệp ước Nhật–Hàn năm 1905 sau đó đã biến Itō trở thành Tổng thường trú người Nhật đầu tiên của Hàn Quốc. Ông đồng ý sáp nhập toàn bộ Triều Tiên trước áp lực từ Quân đội Đế quốc ngày càng hùng mạnh. Ngay sau đó, ông từ chức Tổng thường trú vào năm 1909 và một lần nữa đảm nhận chức vụ Chủ tịch Hội đồng Cơ mật Hoàng gia. Bốn tháng sau, Itō bị ám sát bởi nhà hoạt động độc lập Hàn Quốc và chủ nghĩa dân tộc An Trọng Căn tại Cáp Nhĩ Tân, Mãn Châu.[5][6] Quá trình sáp nhập được chính thức hóa bằng một hiệp ước khác năm 1910 đưa Triều Tiên dưới sự cai trị của Nhật, vào năm sau khi Itō qua đời. luật của chính trị gia, trí thức và tác giả Suematsu Kenchō.