Võ Văn Kiệt
chính trị gia người Việt Nam (1922–2008) / From Wikipedia, the free encyclopedia
Võ Văn Kiệt (tên khai sinh: Phan Văn Hòa; 23 tháng 11 năm 1922 – 11 tháng 6 năm 2008) bí danh Sáu Dân, Chín Dũng, là nhà chính trị Việt Nam. Ông làm Thủ tướng Chính phủ thứ tư (trước kia là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng) của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ ngày 8 tháng 8 năm 1991 đến ngày 25 tháng 9 năm 1997. Ông được nhiều báo chí đánh giá là người đã đẩy mạnh công cuộc Đổi Mới và cải cách chính sách ở Việt Nam kể từ năm 1986,[1][2] là "tổng công trình sư" nhiều dự án táo bạo của thời kỳ Đổi Mới.[3]
Bài này chứa trích dẫn quá nhiều hoặc quá dài cho một bài viết bách khoa. (tháng 3/2024) |
Võ Văn Kiệt | |
---|---|
Thủ tướng Võ Văn Kiệt năm 1993 | |
Chức vụ | |
Nhiệm kỳ | 29 tháng 12 năm 1997 – 22 tháng 4 năm 2001 3 năm, 114 ngày |
Nhiệm kỳ | 9 tháng 8 năm 1991 – 25 tháng 9 năm 1997 6 năm, 47 ngày |
Chủ tịch nước | Võ Chí Công (1987–1992) Lê Đức Anh (1992–1997) |
Tiền nhiệm | Đỗ Mười |
Kế nhiệm | Phan Văn Khải |
Nhiệm kỳ | 11 tháng 3 năm 1988 – 22 tháng 6 năm 1988 |
Chủ tịch Hội đồng Nhà nước | Võ Chí Công (1987–1992) |
Tiền nhiệm | Phạm Hùng |
Kế nhiệm | Đỗ Mười |
Nhiệm kỳ | 1987 – 1991 |
Tiền nhiệm | Võ Nguyên Giáp |
Kế nhiệm | Mai Kỷ |
Nhiệm kỳ | 23 tháng 4 năm 1982 – 9 tháng 8 năm 1991 9 năm, 108 ngày |
Tiền nhiệm | Tố Hữu |
Kế nhiệm | Phan Văn Khải |
Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước | |
Nhiệm kỳ | 23 tháng 4 năm 1982 – 10 tháng 5 năm 1988 |
Tiền nhiệm | Nguyễn Lam |
Kế nhiệm | Đậu Ngọc Xuân |
Phó Chủ nhiệm | Đậu Ngọc Xuân (thứ nhất) |
Nhiệm kỳ | Tháng 12, 1976 – Tháng 4, 1982 |
Tiền nhiệm | Nguyễn Văn Linh |
Kế nhiệm | Nguyễn Văn Linh |
Nhiệm kỳ | 21 tháng 1, 1976 – Tháng 1, 1977 |
Tiền nhiệm | Trần Văn Trà (quân quản) |
Kế nhiệm | Vũ Đình Liệu |
Đại biểu Quốc hội khóa VI, VII, VIII, IX | |
Nhiệm kỳ | 25 tháng 4 năm 1976 – 20 tháng 7 năm 1997 21 năm, 86 ngày |
Vị trí | Việt Nam |
Nhiệm kỳ | 31 tháng 3 năm 1982 – 29 tháng 12 năm 1997 15 năm, 273 ngày |
Bí thư Tỉnh ủy Bạc Liêu | |
Nhiệm kỳ | Tháng 8, 1954 – Tháng 10, 1954 |
Tiền nhiệm | Ung Văn Khiêm |
Kế nhiệm | Châu Văn Đặng |
Nhiệm kỳ | 10 tháng 9 năm 1960 – 29 tháng 12 năm 1997 37 năm, 110 ngày |
Nhiệm kỳ | 1959 – Tháng 4, 1965 |
Tiền nhiệm | Trần Quốc Thảo |
Kế nhiệm | Nguyễn Văn Linh |
Phó Bí thư | Nguyễn Hồng Đào Đoàn Công Chánh |
Nhiệm kỳ | 1966 – Tháng 10, 1967 |
Tiền nhiệm | Nguyễn Văn Linh |
Kế nhiệm | Nguyễn Văn Linh |
Nhiệm kỳ | Tháng 8, 1968 – 1970 |
Tiền nhiệm | Nguyễn Văn Linh |
Kế nhiệm | Trần Bạch Đằng |
Phó Bí thư | Trần Bạch Đằng Đoàn Công Chánh Mai Chí Thọ |
Thông tin chung | |
Sinh | (1922-11-23)23 tháng 11, 1922 tỉnh Vĩnh Long, Nam Kỳ, Liên bang Đông Dương |
Mất | 11 tháng 6, 2008(2008-06-11) (85 tuổi) Bệnh viện Mount Elizabeth, Singapore |
Nơi ở | Thành phố Hồ Chí Minh |
Dân tộc | Kinh |
Tôn giáo | Phật giáo |
Đảng chính trị | Đảng Cộng sản Việt Nam |
Vợ | Trần Kim Anh (1932-1966) Phan Lương Cầm (s.1943) |
Con cái |
|
Ông Kiệt là người đóng vai trò động lực trong công cuộc cải cách kinh tế ở Việt Nam khởi đầu từ giữa những năm 1980, đúng như Tổng thư ký Liên hợp quốc Ban Ki-moon từng đánh giá "Võ Văn Kiệt đã mở đường cho sự chuyển mình của đất nước từ đói nghèo sang một thập kỷ tăng trưởng kinh tế đầy ấn tượng". Khoảng thời gian 5 năm sau Đại hội VI (tháng 12 năm 1986) đến Đại hội VII (tháng 6 năm 1991) là thời gian diễn ra các cuộc cọ xát, đấu tranh ở những mức độ, cấp độ, địa bàn khác nhau giữa hai khuynh hướng trở về cơ chế cũ quan liêu bao cấp hay dứt khoát chia tay với nó. Nhiều cán bộ, hoặc vì lợi ích cá nhân, hoặc vì không đủ quyết tâm, năng lực không dám và không muốn đổi mới. Trước tình hình đó, ông Võ Văn Kiệt cùng nhiều cán bộ lãnh đạo cao cấp kiên trì, thể hiện quyết tâm đổi mới mạnh mẽ và chỉ rõ đổi mới phải bám sát vào điều kiện thực tiễn nhằm đáp ứng lợi ích của nhân dân, của đất nước.
Trên cương vị Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (tháng 6 năm 1988 – tháng 8 năm 1991), Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (tháng 8 năm 1991 – tháng 10 năm 1992), Thủ tướng Chính phủ (tháng 10 năm 1992 1 tháng 2/ năm 997), ông Kiệt đã đề xuất và chỉ đạo xây dựng, triển khai nhiều chính sách có tính đột phá như: xóa bỏ chỉ tiêu pháp lệnh, trao quyền tự chủ kinh doanh cho xí nghiệp quốc doanh; thực hiện thương mại hóa tư liệu sản xuất, cho phép các doanh nghiệp lớn, cả Trung ương và địa phương, được trực tiếp xuất nhập khẩu, chấm dứt tình trạng hai giá; xóa bỏ chế độ thu mua nghĩa vụ áp đặt với nông dân, bãi bỏ ngăn sông cấm chợ, thực hiện tự do lưu thông hàng hóa trong cả nước, chuyển dần nền kinh tế bao cấp sang kinh tế thị trường.