Nhà Nguyên
triều đại Trung Quốc / From Wikipedia, the free encyclopedia
Nhà Nguyên (tiếng Trung: 元朝, bính âm: Yuán Cháo) hay Đại Nguyên (Tiếng Trung: 大元, bính âm: Dà Yuán) là nhà nước kế tục của Đế quốc Mông Cổ và đánh dấu lần đầu tiên Trung Hoa chịu sự cai trị của một triều đại do người dân tộc thiểu số lập ra. Triều Nguyên do Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt lập nên vào năm 1271, định đô tại Đại Đô[lower-alpha 1] sau khi Đế quốc Mông Cổ bị phân nhánh thành 4 quốc gia và Hốt Tất Liệt lên ngôi hoàng đế, đến năm 1279 thì công diệt Nam Tống, thống nhất Trung Quốc, kết thúc cục diện phân chia hơn 400 năm từ thời Đường mạt.
Đế quốc Đại Nguyên
|
|||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
1271–1368 | |||||||||||||
Nhà Nguyên năm 1294 bao gồm cả vương quốc Cao Ly (gạch chéo) là lãnh thổ bảo hộ bán tự trị | |||||||||||||
Vị thế | Đế quốc | ||||||||||||
Thủ đô | Đại Đô (nay là Bắc Kinh) | ||||||||||||
Ngôn ngữ thông dụng | Tiếng Hán Tiếng Mông Cổ | ||||||||||||
Tôn giáo chính | Phật giáo Trung Hoa và Tây Tạng Đạo giáo Nho giáo Tín ngưỡng Đằng Cách Lý giáo (Tengrii) Kitô giáo Hồi giáo | ||||||||||||
Chính trị | |||||||||||||
Chính phủ | Nhà Nguyên | ||||||||||||
Hoàng đế | |||||||||||||
• 1260–1294 | Nguyên Thế Tổ | ||||||||||||
• 1333–1370 (tiếp tục) | Nguyên Huệ Tông | ||||||||||||
Thừa tướng | |||||||||||||
Lịch sử | |||||||||||||
Thời kỳ | Trung cổ | ||||||||||||
Mùa xuân năm 1206 | |||||||||||||
• Chính thức thành lập | 18 tháng 12 năm 1271 | ||||||||||||
1268–1273 | |||||||||||||
• Chinh phục Nam Tống | 4 tháng 2 năm 1276 | ||||||||||||
19 tháng 3 năm 1279 | |||||||||||||
• | 1351–1368 | ||||||||||||
• Đại Đô thất thủ | 14 tháng 9 năm 1368 | ||||||||||||
• Hình thành Bắc Nguyên | 1368–1388 | ||||||||||||
Địa lý | |||||||||||||
Diện tích | |||||||||||||
• 1290 | 14.000.000 km2 (5.405.430 mi2) | ||||||||||||
Dân số | |||||||||||||
• 1290 | 77.000.000 | ||||||||||||
• 1293 | 79.816.000 | ||||||||||||
• 1330 | 83.873.000 | ||||||||||||
• 1350 | 87.147.000 | ||||||||||||
Kinh tế | |||||||||||||
GDP (danh nghĩa) | Ước lượng 1300[1] | ||||||||||||
• Bình quân đầu người | 600 USD (tỷ giá 1990) | ||||||||||||
Đơn vị tiền tệ | Chủ yếu là tiền giấy (Sáo) với lượng nhỏ tiền đồng và nguyên bảo | ||||||||||||
| |||||||||||||
Hiện nay là một phần của | Trung Quốc Mông Cổ Đại Hàn Dân Quốc Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên Hồng Kông Ma Cao Nga Ấn Độ Myanmar Lào |
Bài viết này có chứa ký tự Trung Hoa. Nếu không thích hợp hỗ trợ dựng hình, bạn có thể sẽ nhìn thấy dấu chấm hỏi, hộp, hoặc ký hiệu khác thay vì các chữ Trung Quốc. |
Trong thời kỳ từ Nguyên Thế Tổ đến Nguyên Vũ Tông, quốc lực triều Nguyên đạt đến đỉnh cao, về quân sự thì bình định Tây Bắc, song thất bại khi tiến hành các chiến dịch chinh phạt Nhật Bản và các quốc gia Đông Nam Á, nhất là thất bại trong ba lần đưa quân xâm chiếm Đại Việt. Đến giữa triều đại, hoàng vị triều Nguyên nhiều lần thay đổi, tình hình chính trị không đi vào quỹ đạo. Năm 1351 thời Nguyên Huệ Tông thì khởi nghĩa Khăn Đỏ bùng nổ. Năm 1368, Chu Nguyên Chương sau khi lập nên triều Minh Trung Hoa đã phái đại tướng Từ Đạt dẫn quân bắc phạt, công hãm Đại Đô, nhà Nguyên nói riêng và Đế quốc Mông Cổ nói chung đã sụp đổ. Tàn dư còn lại của triều đình nhà Nguyên đào thoát đến Mạc Bắc, sử gia sau đó gọi là Bắc Nguyên. Năm 1388, Bắc Nguyên Hậu Chủ bỏ quốc hiệu Đại Nguyên, Bắc Nguyên sụp đổ.[2]
Triều Nguyên kế thừa lãnh thổ của Đế quốc Mông Cổ, trải qua nhiều lần mở rộng, đến năm 1310 tức thời Nguyên Vũ Tông thì đạt tới mức độ cực thịnh, phía tây đến Thổ Lỗ Phiên, phía tây nam gồm Tây Tạng, Vân Nam và bắc Miến Điện, phía bắc đến Nam Bộ Đô Bá và hồ Baikal, phía đông sông Obi, phía đông đến biển Nhật Bản - diện tích này lớn hơn cả thời Hán, Đường giai đoạn hoàng kim.[3][4]. Triều Nguyên là nước tông chủ của bốn hãn quốc lớn là Kim Trướng, Sát Hợp Đài, Oa Khoát Đài và Y Nhi, ngoài ra, các nước phiên thuộc của triều Nguyên bao gồm có vương quốc Cao Ly (lãnh thổ bảo hộ) cùng một số quốc gia Đông Nam Á.[2]
Trên phương diện kinh tế, nhà Nguyên lúc này vẫn lấy nông nghiệp làm chủ đạo, tuy nhiên năng lực sản xuất về tổng thể ở mức thấp so với triều Tống.[5] Song có phát triển lớn về kỹ thuật sản xuất, diện tích đất khai khẩn, sản lượng lương thực, xây dựng thủy lợi và diện tích trồng bông. Do người Mông Cổ là dân tộc du mục, thời kỳ còn ở thảo nguyên họ lấy chăn nuôi làm sinh kế chủ đạo, kinh tế đơn nhất, không có chế độ thổ địa. Khi đánh chiếm Hoa Bắc, người Mông Cổ tiến hành tàn sát và cướp bóc gây thiệt hại nghiêm trọng. Sau khi diệt Kim, do Da Luật Sở Tài khuyến gián, Oa Khoát Đài đồng ý cho khôi phục nông nghiệp, khuyến khích người Hán khai khẩn[6]. Sau khi Hốt Tất Liệt đăng cơ, triều Nguyên thực thi khuyến khích sản xuất, an phủ dân lưu tán. Đến thời Nguyên, diện tích trồng bông không ngừng mở rộng, sản phẩm bông vải tại Giang Nam khá hưng thịnh. Sản xuất mang tính thương phẩm phát triển, khiến đương thời kinh tế nông thôn về cơ bản tự cung tự cấp tiến vào quan hệ kinh tế tiền tệ thương phẩm trên một số phương diện. Do Nguyên Đế tập trung khống chế một lượng lớn thợ thủ công nghiệp, kinh doanh sản xuất hàng công nghệ thường dùng, sản xuất thủ công nghiệp quan doanh đặc biệt phát triển, còn thủ công nghiệp dân gian có hạn chế.[6]
Không giống như các vương triều chinh phục khác, triều Nguyên không đề cao văn hóa bản thân mà tích cực tiếp thu văn hóa Trung Hoa, đồng thời kết hợp văn hóa Tây Á, song cũng đề xướng người Mông Cổ ở vị trí tối cao. Triều Nguyên hết sức tôn sùng Phật giáo Tạng, về chính trị sử dụng một lượng lớn người Sắc Mục (tức người Trung-Tây Á và Âu), địa vị của học giả Nho giáo bị hạ thấp, và trong thời gian đầu triều Nguyên từng một thời gian dài không tổ chức khoa cử[chú thích 1]. Do văn hóa sĩ đại phu suy thoái, trật tự xã hội truyền thống từ thời Tống sụp đổ, kinh tế phát triển nhanh chóng. Hiện tượng này trên phương diện chính trị thể hiện qua trọng dụng tư lại, trên phương diện nghệ thuật và văn học biểu hiện qua hí kịch và nghệ năng phát triển việc lấy thứ dân làm đối tượng, trong đó có Nguyên khúc là hưng thịnh nhất.[7]