Sparta
Thành bang Hy Lạp cổ đại / From Wikipedia, the free encyclopedia
Sparta (tiếng Hy Lạp Dorian: Σπάρτα, Spártā; tiếng Hy Lạp Attica: Σπάρτη, Spártē) là một thành bang nổi bật ở Hy Lạp cổ đại. Trong thời cổ đại, thành bang này được gọi là Lacedaemon (Λακεδαίμων, Lakedaímōn), trong khi tên gọi Sparta ám chỉ khu định cư chính của thành bang trên bờ sông Evrotas ở Lakonia, ở phía đông nam Peloponnesos.[1] Vào khoảng năm 650 trước Công nguyên, thành bang này trở thành cường quốc quân sự thống trị trên đất liền ở Hy Lạp cổ đại.
Lacedaemon
|
|||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tên bản ngữ
| |||||||||||
thập niên 900–192 TCN | |||||||||||
Chữ cái lambda được quân đội Spartan dùng làm biểu tượng của Lacedaemon
| |||||||||||
Lãnh thổ của Sparta cổ đại | |||||||||||
Tổng quan | |||||||||||
Thủ đô | Sparta | ||||||||||
Ngôn ngữ thông dụng | tiếng Hy Lạp Dorian | ||||||||||
Tôn giáo chính | Đa thần giáo Hy Lạp | ||||||||||
Chính trị | |||||||||||
Chính phủ | Lưỡng đầu chế | ||||||||||
Vua | |||||||||||
• 1104–1066 TCN | Eurysthenes | ||||||||||
• 1104–1062 TCN | Procles | ||||||||||
• 489–480 TCN | Leonidas I | ||||||||||
• 192 TCN | Laconicus | ||||||||||
Lập pháp |
| ||||||||||
Lịch sử | |||||||||||
Thời kỳ | Cổ đại | ||||||||||
• Khởi phát | thập niên 900 TCN | ||||||||||
• Chiến tranh Messenia | 685–668 TCN | ||||||||||
480 TCN | |||||||||||
431–404 TCN | |||||||||||
• Trận Mantinea | 362 TCN | ||||||||||
192 TCN | |||||||||||
| |||||||||||
Bài viết này có chứa ký tự đặc biệt. Nếu không thích hợp hỗ trợ dựng hình, bạn có thể sẽ nhìn thấy dấu chấm hỏi, hộp, hoặc ký hiệu khác. |
Với ưu thế về quân sự của mình, Sparta được công nhận là lực lượng hàng đầu của quân đội Hy Lạp thống nhất trong các cuộc chiến tranh Hy Lạp-Ba Tư, cạnh tranh với sức mạnh hải quân đang lên của Athens.[2] Sparta là kẻ thù chính của Athens trong cuộc chiến tranh Peloponnisos (từ 431 tới 404 trước Công nguyên),[3] mà thành bang này giành được chiến thắng. Trận Leuctra mang tính quyết định vào năm 371 trước Công nguyên đã chấm dứt quyền bá chủ của người Sparta, mặc dù thành bang này duy trì sự độc lập chính trị của mình cho đến khi La Mã chinh phục Hy Lạp vào năm 146 trước Công nguyên. Sau sự phân chia của Đế chế La Mã, Sparta đã trải qua một thời kỳ suy tàn kéo dài, đặc biệt là vào thời kỳ Trung cổ, khi nhiều công dân của nó chuyển đến Mistras. Sparta hiện đại là thủ phủ của vùng Lakonia phía nam Hy Lạp và là trung tâm chế biến cam quýt và ô liu.
Sparta là một nhà nước chiếm hữu nô lệ có một số nét đặc trưng, được cho là định hình bởi các cải cách của Lykourgos. Tầng lớp công dân Sparta thuần chủng, gọi là Spartiate, là tầng lớp thống trị. Nô lệ heilotes là tầng lớp bị trị đa số ở Sparta. Điểm đặc trưng ở Sparta là nô lệ và đất đai là sở hữu công cộng do nhà nước quản lý, phân chia cho các chủ nô Spartiate sử dụng. Chủ nô không lao động, chỉ được phép tham gia các công việc chinh chiến, cai trị, sống bằng bóc lột nô lệ và người tự do. Nô lệ heilotes bị chủ nô Sparta bóc lột thậm tệ và bị đối xử tàn nhẫn, nhiều trường hợp bị thảm sát hàng loạt để thị uy. Nằm ở vị trí trung gian giữa chủ nô và nô lệ là người tự do mothax (cư dân nam gốc nước ngoài được nhận nuôi như người Sparta) và perioikoi (dân tự do). Nhà nước Sparta có tính quân sự hoá cao độ, giới chủ nô Spartiate phải chịu huấn luyện quân sự khắc nghiệt ở agoge và quân đội Sparta được cho là tinh nhuệ nhất vào thời đó. Trong giới chủ nô, phụ nữ đặc biệt được hưởng nhiều quyền bình đằng giới so với những nơi khác trong thời cổ đại.
Sparta thường là một chủ đề hấp dẫn trong thời đại hiện tại, cũng như trong văn hóa phương Tây sau sự hồi sinh của nghiên cứu văn hoá cổ điển. Sự ngưỡng mộ của Sparta được gọi là laconophilia. Bertrand Russell đã viết:
Sparta đã có ảnh hưởng kép đến tư tưởng Hy Lạp: thông qua thực tế, và thông qua thần thoại.... Thực tế đã giúp người Sparta đánh bại Athens trong chiến tranh; huyền thoại đã ảnh hưởng đến lý thuyết chính trị của Plato và của vô số nhà văn sau đó.... [Những] lý tưởng mà nó ủng hộ đã đóng góp một phần rất lớn trong việc đóng khung các học thuyết của Rousseau, Nietzsche và Chủ nghĩa xã hội quốc gia.[4]