Phân biệt chủng tộc
niềm tin rằng các nhóm người sở hữu những đặc điểm, hành vi, tính cách, ngoại hình khác nhau và có thể được phân chia dựa trên sự vượt trội của chủng tộc này so với chủng tộc khác / From Wikipedia, the free encyclopedia
Phân biệt chủng tộc (Tiếng Anh: racism), còn gọi là kỳ thị chủng tộc hay Chủ nghĩa Phân biệt chủng tộc, là niềm tin rằng các nhóm người sở hữu những đặc điểm, hành vi và tính cách khác nhau tương ứng với ngoại hình và có thể được phân chia dựa trên sự vượt trội của chủng tộc này so với chủng tộc khác.[1][2][3][4] Nó cũng có thể có nghĩa là định kiến, phân biệt đối xử hoặc đối kháng nhắm vào người khác vì họ thuộc chủng tộc hoặc sắc tộc khác.[2][3] Các biến thể hiện đại của phân biệt chủng tộc thường dựa trên nhận thức xã hội về sự khác biệt sinh học giữa các dân tộc. Những quan điểm này có thể ở dạng hành động xã hội, thực tiễn hoặc tín ngưỡng hoặc hệ thống chính trị trong đó các chủng tộc khác nhau được xếp hạng là vượt trội hoặc kém hơn nhau, dựa trên những đặc điểm, khả năng hoặc phẩm chất được thừa nhận chung.[2][3][5]
Trong điều kiện của hệ thống chính trị (ví dụ, phân biệt chủng tộc) có hỗ trợ sự biểu hiện của định kiến hay ác cảm trong hành động kỳ thị hoặc pháp luật, phân biệt chủng tộc ý thức hệ có thể bao gồm liên quan đến các khía cạnh xã hội như nativism, bài ngoại, phân biệt đối xử, phân chia chủng tộc, thứ bậc xếp hạng, và chủ nghĩa thượng đẳng.
Trong khi các khái niệm về chủng tộc và sắc tộc được coi là riêng biệt trong khoa học xã hội đương đại, hai thuật ngữ này có một lịch sử tương đương lâu dài trong cách sử dụng phổ biến và tài liệu khoa học xã hội cũ. "Dân tộc" thường được sử dụng theo nghĩa gần gũi với một "truyền thống" theo truyền thống: sự phân chia các nhóm người dựa trên phẩm chất được coi là thiết yếu hoặc bẩm sinh cho nhóm (ví dụ: tổ tiên chung hoặc hành vi chia sẻ). Do đó, phân biệt chủng tộc thường được sử dụng để mô tả phân biệt đối xử trên cơ sở sắc tộc hoặc văn hóa, không phụ thuộc vào việc những khác biệt này được mô tả là phân biệt chủng tộc. Theo một công ước của Liên Hợp Quốc về phân biệt chủng tộc, không có sự phân biệt giữa các thuật ngữ "phân biệt chủng tộc" và "sắc tộc". Công ước Liên Hợp Quốc kết luận thêm rằng sự vượt trội dựa trên sự phân biệt chủng tộc là sai về mặt khoa học, đáng lên án về mặt đạo đức, bất công xã hội và nguy hiểm. Công ước cũng tuyên bố rằng không có sự biện minh nào cho sự phân biệt chủng tộc, ở bất cứ đâu, trên lý thuyết hoặc trong thực tế.[6]
Chủ nghĩa phân biệt chủng tộc là một khái niệm tương đối hiện đại, phát sinh trong thời đại châu Âu của chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa phát xít đặc biệt là buôn bán nô lệ Đại Tây Dương,[1] trong đó nó là một động lực chính.[7] Nó cũng là một lực lượng chính đằng sau sự phân biệt chủng tộc, đặc biệt là ở Hoa Kỳ trong thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX và Nam Phi dưới thời apartheid; Chủ nghĩa phân biệt chủng tộc ở thế kỷ 19 và 20 trong văn hóa phương Tây đặc biệt được ghi chép lại và tạo thành điểm tham chiếu trong các nghiên cứu và diễn ngôn về phân biệt chủng tộc.[8] Chủ nghĩa phân biệt chủng tộc đã đóng một vai trò trong các cuộc diệt chủng như Holocaust, diệt chủng người Armenia và diệt chủng người Serb và các dự án thuộc địa bao gồm thực dân châu Âu của châu Mỹ, châu Phi và châu Á cũng như sự trục xuất người thiểu số bản địa. Người dân bản địa đã từng là người Haiti và là người thường xuyên phải tuân theo thái độ phân biệt chủng tộc.