Mariner 10
From Wikipedia, the free encyclopedia
Mariner 10 là một tàu thăm dò không gian không người lái của Mỹ do NASA phóng vào ngày 3 tháng 11 năm 1973, bay ngang qua Sao Thủy và Sao Kim.[2]
Tàu vũ trụ Mariner 10 | |
Dạng nhiệm vụ | Khám phá hành tinh |
---|---|
Nhà đầu tư | NASA / JPL |
COSPAR ID | 1973-085A[1] |
SATCAT no. | 06919[1] |
Thời gian nhiệm vụ | 1 năm, 4 tháng, 21 ngày |
Các thuộc tính thiết bị vũ trụ | |
Nhà sản xuất | Phòng Thí nghiệm Sức đẩy Phản lực |
Khối lượng phóng | 502,9 kilôgam (1.109 lb)[2] |
Công suất | 820 watt (tại lần tiếp cận Sao Kim) |
Bắt đầu nhiệm vụ | |
Ngày phóng | 3 tháng 11 năm 1973, 05:45:00 UTC[2] |
Tên lửa | Atlas SLV-3D Centaur-D1A |
Địa điểm phóng | Mũi Canaveral, LC-36B[2] |
Kết thúc nhiệm vụ | |
Cách loại bỏ | Ngừng hoạt động |
Dừng hoạt động | 24 tháng 3 năm 1975, 12:21 UTC |
Bay qua Sao Kim | |
Tiếp cận gần nhất | 5 tháng 2 năm 1974 |
Khoảng cách | 5.768 kilômét (3.584 mi) |
Bay qua Sao Thủy | |
Tiếp cận gần nhất | 29 tháng 3 năm 1974 |
Khoảng cách | 704 kilômét (437 mi) |
Bay qua Sao Thủy | |
Tiếp cận gần nhất | 21 tháng 9 năm 1974 |
Khoảng cách | 48.069 kilômét (29.869 mi) |
Bay qua Sao Thủy | |
Tiếp cận gần nhất | 16 tháng 3 năm 1975 |
Khoảng cách | 327 kilômét (203 mi) |
Đây là tàu vũ trụ đầu tiên được gửi đến Sao Thủy, là sứ mệnh đầu tiên nghiên cứu hai hành tinh, là tàu vũ trụ đầu tiên gửi dữ liệu về một sao chổi trong thời gian dài, và là tàu vũ trụ đầu tiên sử dụng hỗ trợ hấp dẫn để bẻ cong đường bay của tàu.[2][3]
Mariner 10 được phóng sau Mariner 9 khoảng hai năm và là tàu vũ trụ cuối cùng trong chương trình Mariner (Mariner 11 và Mariner 12 được sử dụng cho chương trình Voyager và được đổi tên thành Voyager 1 và Voyager 2).
Mục tiêu chính của sứ mệnh là đo đạc môi trường, khí quyển, bề mặt và các đặc điểm khác của Sao Thủy, và các nghiên cứu tương tự với Sao Kim.[3] Mục tiêu phụ của sứ mệnh là thực hiện thí nghiệm trong môi trường liên hành tinh và thu thập dữ liệu để có có thêm kinh nghiệm cho các sứ mệnh được hai hành tinh hỗ trợ hấp dẫn. Nhóm khoa học của Mariner 10 được Bruce C. Murray tại Phòng Thí nghiệm Sức đẩy Phản lực lãnh đạo.[4]