Mahmud Ahmadinezhad
From Wikipedia, the free encyclopedia
Mahmoud Ahmadinejad (tiếng Ba Tư: محمود احمدینژاد, Mahmud Ahmadinežâd mæhˈmuːd æhmædiːneˈʒɒːd; sinh ngày 28 tháng 10 năm, 1956) là tổng thống thứ sáu của Cộng hòa Hồi giáo Iran trong giai đoạn 2005-2013. Ông trở thành tổng thống ngày 6 tháng 8 năm 2005 sau chiến thắng trong bầu cử tổng thống Iran năm 2005 và tái đắc cử năm 2009 trong một cuộc bầu cử gây nhiều tranh cãi. Trước khi trở thành tổng thống, Ahmadinejad là thị trưởng của thành phố Tehran, ông đã từng tham gia trong Chiến tranh Iran-Iraq, là thành viên của Lực lượng Vệ binh Cách mạng Iran. Ông là tổng thống; tuy nhiên, theo điều 113[1] của hiến pháp Cộng hoà Hồi giáo Iran, ông có ít quyền lực hơn Lãnh đạo Tinh thần Tối cao Iran, Ayatollah Ali Khamenei, đồng thời là tổng tư lệnh quân đội Iran, người có tiếng nói quyết định trong tất cả các chính sách đối ngoại cũng như đối nội [1][2][3].
Bài viết hoặc đoạn này cần người am hiểu về chủ đề này trợ giúp biên tập mở rộng hoặc cải thiện. |
Mahmūd Ahmadinejād محمود احمدینژاد | |
---|---|
Chức vụ | |
Nhiệm kỳ | 3 tháng 8 năm 2005 – 3 tháng 8 năm 2013 8 năm, 0 ngày |
Tiền nhiệm | Mohammad Khatami |
Kế nhiệm | Hassan Rouhani |
Vị trí | Iran |
Lãnh tụ tối cao | Ali Khamenei |
Nhiệm kỳ | 20 tháng 6 năm 2003 – 3 tháng 8 năm 2005 2 năm, 44 ngày |
Tiền nhiệm | Mohammad-Hassan Malekmadani |
Kế nhiệm | Mohammad Bagher Ghalibaf |
Vị trí | Tehran |
Phó thị trưởng | Ali Saeedlou |
Thống đốc Ardabil | |
Nhiệm kỳ | 1 tháng 5 năm 1993 – 28 tháng 6 năm 1997 4 năm, 58 ngày |
Tiền nhiệm | Hossein Taheri (Đông Azerbaijan) |
Kế nhiệm | Javad Negarandeh |
Vị trí | Ardabil |
Tổng thư ký Phong trào không liên kết | |
Nhiệm kỳ | 30 tháng 8 năm 2012 – 3 tháng 8 năm 2013 338 ngày |
Tiền nhiệm | Mohamed Morsi |
Kế nhiệm | Hassan Rouhani |
Vị trí | Phong trào không liên kết |
Thông tin chung | |
Sinh | 28 tháng 10, 1956 (67 tuổi) Aradan, Iran |
Tôn giáo | Hồi giáo Shia |
Đảng chính trị | Liên minh các nhà xây dựng Hồi giáo Iran (2001–nay) Hiệp hội Hồi giáo sư (1990–2005) |
Con cái | Mehdi Alireza Fatemeh |
Trường lớp | Đại học Khoa học và Công nghệ Iran |
Chữ ký |
Ahmadinejad chỉ trích Hoa Kỳ và Israel, đẩy mạnh mối quan hệ với Nga, Venezuela, Syria, và nhóm các quốc gia quanh Vịnh Ba Tư [4][5][6]. Ông luôn cho rằng chương trình hạt nhân của Iran vì mục đích hoà bình và từ chối yêu cầu chấm dứt làm giàu urani của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc [7].
Theo một bản dịch bài diễn văn bị chính quyền Iran cho là không chính xác, Ahmadinejad kêu gọi giải tán quốc gia Israel[8][9]. Ông cũng kêu gọi bầu cử tự do trong khu vực. Ông tin rằng người Palestine cần một tiếng nói mạnh mẽ hơn trong tương lai của khu vực[10][11].
Một trong những phát ngôn gây tranh cãi nhất của Ahmadinejad là một tuyên bố, mà theo như bản dịch của Đài phát thanh Cộng hòa Hồi giáo Iran, ông kêu gọi "đế chế chiếm đóng" phải bị "xóa ra khỏi bản đồ,"[12] mặc dù bản dịch và sự diễn dịch phát ngôn đang bị tranh cãi[13][14]. Ông cũng bị chỉ trích vì đã mô tả nạn diệt chủng Do Thái là hoang đường[13][15], khiến ông bị buộc tội là bài Do Thái; cách diễn dịch lời nói này cũng bị tranh cãi[16]. Đáp lại những lời chỉ trích này, Ahmadinejad nói "Không, tôi không chống lại người Do Thái, tôi rất tôn trọng họ"[17]. Ahmadinejad cũng làm rõ, "Tôi không nói rằng nó [Nạn diệt chủng Do Thái] hoàn toàn không xảy ra. Nó không đúng với điều mà tôi muốn nói."[18]