Linh dương đầu bò xanh
loài động vật có vú / From Wikipedia, the free encyclopedia
Linh dương đầu bò xanh (tiếng Anh: blue wildebeest; danh pháp hai phần: Connochaetes taurinus), cũng được gọi là linh dương đầu bò thông thường (common wildebeest), linh dương đầu bò râu trắng (white-bearded wildebeest) hoặc linh dương đầu bò nâu đốm (brindled gnu), là một loài linh dương lớn và là một trong hai loài linh dương đầu bò (wildebeest). Loài này được xếp vào chi Connochaetes, họ Bovidae và có mối quan hệ chặt chẽ với linh dương đầu bò đen. Linh dương đầu bò xanh có 5 phân loài. Loài này có bờ vai rộng vạm vỡ, diện mạo nặng mặt tiền, cùng chiếc mõm đặc biệt chắc khỏe. Lông linh dương non khi sinh ra có màu vàng nâu, bắt đầu chuyển màu trưởng thành khi đạt 2 tháng tuổi. Màu sắc lớp lông khi trưởng thành có phạm vi từ màu đá phiến sẫm hoặc xám xanh đến xám nhạt hay thậm chí nâu xám. Cả hai giới sở hữu cặp sừng rộng và cong.
Linh dương đầu bò xanh | |
---|---|
Khoảng thời gian tồn tại: 1–0 triệu năm trước đây Pleistocen giữa – hiện tại | |
Con đực C. t. albojubatus Khu bảo tồn Ngorongoro, Tanzania | |
Con cái và con non | |
Phân loại khoa học | |
Giới: | Animalia |
Ngành: | Chordata |
Lớp: | Mammalia |
Bộ: | Artiodactyla |
Họ: | Bovidae |
Phân họ: | Alcelaphinae |
Chi: | Connochaetes |
Loài: | C. taurinus |
Danh pháp hai phần | |
Connochaetes taurinus (Burchell, 1823) | |
Phân loài | |
C. t. albojubatus (Thomas, 1912) | |
Phân bố dựa theo phân loài: C. t. taurinus C. t. cooksoni C. t. johnstoni C. t. albojubatus C. t. mearnsi |
Linh dương đầu bò xanh là loài ăn cỏ, chủ yếu tìm ăn cỏ thấp. Đàn linh dương di chuyển theo nhóm rời rạc, chúng chạy nhanh và khả năng cảnh giác cực kỳ cao. Mùa giao phối bắt đầu vào cuối mùa mưa và một con non đơn lẻ được sinh ra sau thai kỳ khoảng 8 tháng rưỡi. Con non vẫn còn ở với mẹ trong 8 tháng, sau thời gian đó nó tham gia vào đàn linh dương non. Linh dương đầu bò xanh sinh sống trên đồng bằng cỏ thấp giáp ranh trảng cỏ có cây keo bao phủ thành bụi rậm tại miền nam và đông châu Phi, phát triển mạnh tại khu vực không quá ẩm ướt cũng không quá khô cằn. Mỗi năm, ba quần thể linh dương đầu bò xanh tại Đông Phi tham gia hành trình di cư đường dài, thời gian ước tính trùng với lượng mưa hằng năm và lượng cỏ mọc trên đồng bằng cỏ thấp. Chúng tìm đến nơi có nguồn cỏ giàu dinh dưỡng cần thiết cho quá trình tiết sữa và cho con non phát triển.[2][3]
Linh dương đầu bò xanh là loài bản địa tại Angola, Botswana, Eswatini, Kenya, Mozambique, Nam Phi, Tanzania, Zambia và Zimbabwe. Ngày nay, loài này đã tuyệt chủng ở Malawi, nhưng được tái nhập thành công tại Namibia. Phạm vi phân bố của linh dương đầu bò xanh có giới hạn phía nam đến sông Orange, còn giới hạn phía tây giáp hồ Victoria và núi Kenya. Loài linh dương này khá phổ biến, đang được du nhập đến nhiều trang trại tư nhân, khu dự trữ và khu bảo tồn. Do đó, IUCN xếp linh dương đầu bò xanh là loài ít quan tâm. Số lượng ước tính được khoảng 1,5 triệu và xu hướng quần thể ổn định.