Chiến cục năm 1972 tại Việt Nam
From Wikipedia, the free encyclopedia
Chiến cục năm 1972 là tổ hợp các hoạt động tấn công quân sự chiến lược của Quân đội nhân dân Việt Nam và Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trên chiến trường miền Nam Việt Nam và phòng thủ đường không ở miền Bắc. Chiến cục do Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) chủ trương, Tổng Quân ủy Trung ương Quân đội Nhân dân Việt Nam chỉ đạo và Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam chỉ huy chung. Chiến cục này đồng thời cũng là tổ hợp các hoạt động phòng ngự, phản công của quân đội Hoa Kỳ, Quân lực Việt Nam Cộng hòa và cuộc tấn công bằng không quân của Hoa Kỳ đối với miền Bắc Việt Nam. Các chiến dịch chủ yếu của chiến cục bắt đầu từ ngày 31 tháng 3 năm 1972 và kết thúc ngày 31 tháng 1 năm 1973, ba ngày sau khi Hiệp định Paris có hiệu lực.
Chiến cục năm 1972 | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|
Một phần của Chiến tranh Việt Nam | |||||||
| |||||||
Tham chiến | |||||||
Hoa Kỳ Việt Nam Cộng hòa |
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam | ||||||
Chỉ huy và lãnh đạo | |||||||
Creighton Abrams John W. Vogt Jr John Dale Ryan Gerald W. Johnson Andrew B. Anderson Glenn R. Sullivan Cao Văn Viên Hoàng Xuân Lãm Ngô Quang Trưởng Nguyễn Văn Toàn Nguyễn Văn Minh Lê Văn Hưng John Paul Vann. |
Võ Nguyên Giáp Văn Tiến Dũng Lê Trọng Tấn Trần Quý Hai Hoàng Văn Thái Trần Văn Trà Hoàng Minh Thảo Lê Quang Đạo Chu Huy Mân Phùng Thế Tài Lê Văn Tri Hoàng Phương | ||||||
Lực lượng | |||||||
742.000 (quân chính quy có 11 sư đoàn, 18 trung đoàn, nhiều liên đoàn, thiết đoàn độc lập[1], cộng thêm hàng trăm nghìn quân Địa phương) 2.090 xe chiến đấu (472 xe tăng, 1.618 xe thiết giáp) 1.692 máy bay và trực thăng các loại, 1.611 tàu chiến và ca nô Khoảng 65.000 Không quân chiến thuật, chiến lược Hoa Kỳ (1.270 máy bay, vài trăm trực thăng) Hải quân hạm đội 7 Hoa Kỳ (gồm 6 tàu sân bay, 135 tàu tuần dương, tàu khu trục và tàu nổi khác) |
Quân chính quy có 14 sư đoàn bộ binh, 6 sư đoàn phòng không, 26 trung đoàn độc lập[2], trong đó khoảng 120.000 chiến đấu tại miền Nam (lực lượng ban đầu, trong quá trình chiến đấu được tăng viện thêm vài chục nghìn quân nữa)[3] Hàng trăm nghìn dân quân, du kích trên cả nước 322 xe tăng, xe thiết giáp các loại (gồm 136 xe T-54, 24 xe ZSU-57-2, 54 xe tăng PT-76, 108 xe T-34 và BTR-50[4]) Khoảng 100 máy bay | ||||||
Thương vong và tổn thất | |||||||
Tính chung cả năm 1972: VNCH: 39.587 chết, 139.731 bị thương, 13.200 mất tích[5][6][7][8][9][10][11][12] Theo Việt Nam dân chủ cộng hoà: 213.307 chết và bị thương, khoảng 13.000 bị bắt.[13] 758 máy bay và vài trăm trực thăng bị bắn rơi, 125 tàu chiến bị đánh chìm hoặc hư hại |
Nguồn của Hoa Kỳ (ước tính): |
Các hoạt động quân sự trong chiến cục năm 1972 diễn ra trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Trong đó các địa bàn hoạt động quân sự chính là vùng Đông Nam Bộ, vùng Bắc Tây Nguyên, vùng Trị-Thiên-Huế; các địa bàn hoạt động quân sự phối hợp là Đồng bằng Nam Bộ, Trung Trung Bộ; các địa bàn hoạt động quân sự đất đối không là Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên, Thanh Hóa, Vinh và các vùng lân cận.
Đây cũng là những trận đánh cuối cùng có sự tham gia của quân đội Hoa Kỳ trong Chiến tranh Việt Nam, chủ yếu là dùng không quân và hải quân. Đây cũng là năm ác liệt nhất trong Chiến tranh Việt Nam với con số thiệt hại về sinh mạng và số lượng tài sản quân sự bị phá huỷ của các bên đều ở mức cao nhất trong một năm; (kể cả số liệu mà các bên tự thừa nhận cũng như số liệu của đối phương ước tính).