Callisto (vệ tinh)
Vệ tinh Galileo của Sao Mộc / From Wikipedia, the free encyclopedia
Callisto (/kəˈlɪstoʊ/, hay Jupiter IV) là vệ tinh lớn thứ hai của Sao Mộc.[1] Trong hệ Mặt Trời, Callisto là vệ tinh lớn thứ ba, sau Ganymede cũng của Sao Mộc và vệ tinh Titan của Sao Thổ. Callisto cũng là vật thể lớn thứ 12 trong Hệ Mặt Trời về đường kính. Vệ tinh được Galileo Galilei phát hiện vào năm 1610. Tuy kích thước bằng 99% Sao Thủy nhưng do có khối lượng riêng nhỏ, khối lượng của Callisto chỉ bằng 1/3 so với Sao Thủy. Trong số 4 vệ tinh lớn của Sao Mộc mà Galilei đã phát hiện từ thế kỉ 17, Callisto có khoảng cách với Sao Mộc xa nhất, trung bình 1.880.000 km.[3] Callisto cũng không tạo ra với 3 vệ tinh lớn còn lại hệ quỹ đạo cộng hưởng (1 chu kì quanh Sao Mộc của Ganymede bằng 2 lần chu kì của Europa và bằng 4 lần của Io). Dưới sức hút cực lớn của một "hành tinh khí khổng lồ" (gas giant) như Sao Mộc, một mặt của Callisto luôn luôn hướng về phía Sao Mộc, giống như Mặt Trăng luôn chỉ quay một mặt về phía Trái Đất. Do ở xa nhất trong 4 vệ tinh lớn, tác động của lực hấp dẫn và từ trường của Sao Mộc lên Callisto là yếu nhất.[9] Với những vệ tinh gần hơn, sức hút của Sao Mộc làm biến dạng chúng, khiến các lớp của những vệ tinh này ma sát sinh ra năng lượng. Ví dụ điển hình là Io, vệ tinh lớn nằm gần Sao Mộc nhất, dưới tác động của những năng lượng ngoại sinh này, đã hình thành các núi lửa vẫn đang hoạt động.
Ảnh màu thật của Callisto được chụp bởi tàu vũ trụ Voyager 2 | |||||||||
Khám phá | |||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Khám phá bởi | Galileo Galilei[1] | ||||||||
Ngày phát hiện | 7 tháng 1 năm 1610[1] | ||||||||
Tên định danh | |||||||||
Phiên âm | /kəˈlɪstoʊ/[2] | ||||||||
Tên thay thế | Jupiter IV | ||||||||
Tính từ | Callistoan /kælɪˈstoʊən/ v.v. (xem trong bài) | ||||||||
Đặc trưng quỹ đạo | |||||||||
Cận điểm quỹ đạo | 1 869 000 km[b] | ||||||||
Viễn điểm quỹ đạo | 1 897 000 km[a] | ||||||||
Bán kính quỹ đạo trung bình | 1 882 700 km[3] | ||||||||
Độ lệch tâm | 0,007 4[3] | ||||||||
16,689 018 4 ngày[3] | |||||||||
Tốc độ vũ trụ cấp 1 trung bình | 8,204 km/s | ||||||||
Độ nghiêng quỹ đạo | 0,192° (so với mặt phẳng Laplace địa phương)[3] | ||||||||
Vệ tinh của | Sao Mộc | ||||||||
Đặc trưng vật lý | |||||||||
Bán kính trung bình | 2410,3 ± 1,5 km (0,378 Trái Đất)[4] | ||||||||
7,30 × 107 km² (0,143 Trái Đất)[c] | |||||||||
Thể tích | 5,9 × 1010 km³ (0,0541 Trái Đất)[d] | ||||||||
Khối lượng | 1,075 938 ± 0,000 137 × 1023 kg (0.018 Trái Đất)[4] | ||||||||
Mật độ trung bình | 1,834 4 ± 0,003 4 g/cm³[4] | ||||||||
1,235 m/s² (0,126 g)[e] | |||||||||
2,440 km/s[f] | |||||||||
đồng bộ[4] | |||||||||
không[4] | |||||||||
Suất phản chiếu | 0,22 (hình học)[5] | ||||||||
| |||||||||
5,65 (xung đối)[6] | |||||||||
Khí quyển | |||||||||
Áp suất bề mặt | 7,5 pbar[7] | ||||||||
Thành phần khí quyển | ~4 × 108 cm−3 carbon dioxide[7] lên tới 2 × 1010 cm−3 oxy phân tử[8] | ||||||||
Callisto có cấu tạo một nửa là đất đá và nửa còn lại là băng, khối lượng riêng xấp xỉ 1,83 g/cm³. Theo những quan sát quang phổ, bề mặt của Callisto được cấu tạo từ băng nước, C02, silicates và các hợp chất hữu cơ. Tàu thám hiểm Galileo khi nghiên cứu Sao Mộc và các vệ tinh của nó đã chỉ ra rằng, rất có thể ở phía dưới lớp bề mặt băng đá 1.000 km là một đại dương.[10][11]
Bề mặt của Callisto có rất nhiều những hố thiên thạch và được hình thành ngay trong giai đoạn đầu.[12] Không hề thấy dấu vết về những hoạt động địa chất của Callisto gần đây, không có động đất hay núi lửa cũng như sự chuyển dịch của các địa tầng. Địa hình của Callisto chủ yếu là các chuỗi hố thiên thạch nhiều hình dáng, những vết đứt gãy địa tầng, những rặng núi và sa thạch.[12] Xét một cách chi tiết, bề mặt của Callisto là rất đa dạng, với những lớp băng kết có màu sáng ở cao hơn những vành đai đất đá mịn và sẫm màu.[5] Chúng có thể là kết quả của những quá trình thay đổi địa chất cùng với tác động của nhiều vụ va chạm thiên thạch đã xảy ra trong quá khứ. Hiện tại chưa xác định được tuổi của những biến đổi này.[5]
Callisto có một bầu khí quyển rất mỏng với sự xuất hiện của CO2,[7] các nguyên tử oxy,[8] và một tầng điện ly khá dày.[13] Ngày nay, người ta cho rằng Callisto được hình thành từ sự tích tụ rất chậm chạp các vật chất trong vành đai của Sao Mộc vào buổi đầu của hệ Mặt Trời.[14] Tốc độ hình thành thấp và thiếu đi năng lượng sinh ra do ma sát giữa các lớp vật chất (do cách xa Sao Mộc), Callisto không bị phân lớp một cách hoàn toàn mà chỉ bị phân lớp một phần (nếu một thiên thể bị phân lớp hoàn toàn, lớp vật chất phía trong sẽ đặc hơn và tạo thành lõi thiên thể). Chính sự phân lớp một phần đó có thể đã tạo ra cho Callisto một lõi đá nhỏ và một lớp nước dày từ 100 đến 150 km dưới lớp bề mặt.[15]
Với sự tồn tại của một đại dương, mặc dù ở sâu dưới lớp bề mặt, Callisto có thể có sự sống. Khả năng tồn tại sự sống của Callisto không nhiều bằng khả năng của Europa.[16] Một số tàu thám hiểm đã nghiên cứu vệ tinh này, từ Pioneer 10 và Pioneer 11 tới Galileo và Cassini. Trong tương quan với Sao Mộc và các vệ tinh của nó, Callisto có thể là nơi thích hợp nhất cho những chuyến thám hiểm và khai phá trong tương lai của con người.[17]