BMP-1
From Wikipedia, the free encyclopedia
BMP-1 (Boyevaya Mashina Pekhoty-1) là xe chiến đấu bộ binh lội nước bọc thép do Liên Xô thiết kế và chế tạo từ thập niên 1960 và tham chiến lần đầu trong Chiến tranh Yom Kippur. Đây là xe chiến đấu bộ binh đầu tiên trên thế giới.[6][9]
BMP-1 | |
---|---|
BMP-1 thuộc Quân đội Nhân dân Việt Nam. | |
Loại | Xe chiến đấu bộ binh |
Nơi chế tạo | Liên Xô |
Lược sử hoạt động | |
Phục vụ | 1966 - nay |
Sử dụng bởi | Liên Xô Nga Trung Quốc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Cộng hòa Miền Nam Việt Nam Việt Nam Lào Cộng hòa Nhân dân Campuchia Campuchia Belarus Kazakhstan Ba Lan Indonesia BMP-3F Ai Cập Syria Afghanistan Ấn Độ Iraq Kuwait Đức Hy Lạp Thụy Điển Israel |
Lược sử chế tạo | |
Người thiết kế | Pavel Isakov[1] |
Năm thiết kế | 1961 - 1965 |
Nhà sản xuất | Kurgan Engineering Works (KMZ) (USSR)[1] ZTS Dubnica nad Váhom (Tiệp Khắc) Military Motorization Works No. 5 (Ba Lan) See also Production history section for details. |
Giai đoạn sản xuất | 1966 - 1983 (Liên Xô) ? - 1988 (Ba Lan) |
Số lượng chế tạo | Hơn 20 nghìn xe các phiên bản khác nhau (Liên Xô)[2] Hơn 3000 xe (Trung Quốc)[3] 1.994 (Tiệp Khắc) 274 (Ba Lan) Khoảng 800 (Ấn Độ)[4] |
Các biến thể | BMP-1, BMP-2, MLI-84, Boragh. |
Thông số (Ob'yekt 765Sp3) | |
Khối lượng | 13,2 tấn[5][6] |
Chiều dài | 6.735 m[5] |
Chiều rộng | 2,94 m[5] |
Chiều cao | 2.068 m (1.881 m không kể tháp pháo)[5][6] |
Kíp chiến đấu | 3 (chỉ huy, lái xe và pháo thủ) + 8 binh lính |
Vũ khí chính | 73 mm 2A28 "Grom" low pressure short-recoil semi-automatic gun (40 viên đạn)[5] Bệ phóng ATGM 9S428 cho 9M14 Malyutka (4 + 1 tên lửa)[5][6][7] |
Vũ khí phụ | Súng máy đồng trục PKT (2.000 rounds) |
Động cơ | UTD-20, 6-cylinder 4-stroke V-shaped airless-injection water cooled multifuel 15.8 liter diesel 300 hp (224 kW) at 2.600 rpm[5][6] |
Công suất/trọng lượng | 22.7 hp/tonne (17.0 kW/tonne) |
Hệ thống treo | individual torsion bar with hydraulic shock absorbers on the 1st and 6th road wheels |
Khoảng sáng gầm | 370 mm [5][6] |
Sức chứa nhiên liệu | 462 l (122 gal)[6] |
Tầm hoạt động | 600 km (road)[8] 500 km (off-road)[6] |
Tốc độ | 65 km/h (trên đường) 45 km/h (off-road) 7-8 km/h (dưới nước)[6][7] |
Xe được thiết kế để giúp binh sĩ núp bên trong lớp thép dày và bắn đối phương qua 9 lỗ châu mai trên thân xe. Tháp xe được trang bị một súng chính 73 mm nòng trơn, 1 súng máy 7,62mm đồng trục và 1 bệ phóng tên lửa chống tăng AT-3 Sagger ngay phía trên súng chính. Xe chạy bằng động cơ diesel 6 silander và bánh xích. Kíp xe gồm 3 người (xa trưởng, lái xe và xạ thủ). Xe có thể mang tới 8 chiến sĩ bộ binh với vũ khí cá nhân (thường là AK và PKM) bên trong.
Phương Tây đã rất ngạc nhiên khi Liên Xô tổ chức diễu binh có sự tham gia của mẫu thiết kế BMP đầu tiên của mình là BMP-1 vào năm 1967. Phần mũi được thiết kế dốc và bọc giáp khá dày theo tiêu chuẩn của xe thiết giáp thời bấy giờ, đủ sức bảo vệ xe trước súng máy hạng nặng 12,7mm tiêu chuẩn NATO với góc bắn trực diện là 60°, trong khi pháo nòng trơn và ATGM có thể dễ dàng tiêu diệt các APC (xe thiết giáp chở quân) của NATO như M113 và thậm chí cả xe tăng chiến đấu chủ lực như M48 Patton.
Bên cạnh những ưu điểm thì BMP-1 cũng có nhược điểm. BMP-1 chỉ có thể giữ vận tốc tối đa của nó (70 km/h) trong một thời gian ngắn bởi vì kết cấu truyền động và việc rung xóc không cho phép. Nó cũng không thể bắn pháo 73mm lẫn súng máy đồng trục một cách chính xác khi đang hành tiến qua địa hình ghồ ghề. Chiếc xe cũng phải dừng khi muốn nạp đạn cho AT-3 hay khoá mục tiêu cho nó. Do được gắn trên bệ phóng ở ngoài xe, tên lửa AT-3 không dễ dàng để nạp khi xe chạy và người lính cũng không thể nạp đạn cho nó khi đang trong điều kiện môi trường nhiễm phóng xạ hoặc chất hóa học.[10]