Apollo 1
chuyến du hành không gian dự kiến của Hoa Kỳ bị tai nạn hoả hoạn phá hủy (1967) / From Wikipedia, the free encyclopedia
Apollo 1, ban đầu được chỉ định là AS-204, theo kế hoạch là sứ mệnh có người lái đầu tiên của chương trình Apollo,[1] một nỗ lực nhằm trở thành quốc gia đầu tiên đưa người đổ bộ lên Mặt Trăng của Hoa Kỳ. Nhiệm vụ được lên kế hoạch phóng vào ngày 21 tháng 2 năm 1967 như cuộc thử nghiệm đầu tiên ở quỹ đạo Trái Đất tầm thấp của mô-đun chỉ huy và dịch vụ Apollo. Tuy nhiên, sứ mệnh này chưa bao giờ được bay; một vụ cháy cabin trong quá trình kiểm tra diễn tập cho phi vụ phóng tại Tổ hợp Phóng 34 của Trạm Không quân Mũi Kennedy vào ngày 27 tháng 1 đã giết chết toàn bộ ba thành viên phi hành đoàn, bao gồm phi công chỉ huy Gus Grissom, phi công cao cấp Ed White, và phi công Roger B. Chaffee. Ngoài ra, vụ hỏa hoạn còn phá hủy mô-đun chỉ huy (CM). Tên gọi Apollo 1, vốn do đội bay chọn, đã được NASA chính thức hóa sau vụ hỏa hoạn để vinh danh các phi hành gia thiệt mạng.
Gus Grissom, Ed White, và Roger B. Chaffee đứng trước bệ phóng chứa phương tiện vũ trụ AS-204 | |
Tên | AS-204, Apollo 1 |
---|---|
Dạng nhiệm vụ | Chuyến bay thử nghiệm tàu vũ trụ có người lái |
Nhà đầu tư | NASA |
Thời gian nhiệm vụ | Lên đến 14 ngày (dự kiến) |
Các thuộc tính thiết bị vũ trụ | |
Thiết bị vũ trụ | CSM-012 |
Dạng thiết bị vũ trụ | Mô-đun chỉ huy và dịch vụ Apollo, Block I |
Nhà sản xuất | North American Aviation |
Khối lượng phóng | 20.000 kilôgam (45.000 lb) |
Phi hành đoàn | |
Số lượng phi hành đoàn | 3 |
Thành viên |
|
Bắt đầu nhiệm vụ | |
Ngày phóng | 21 tháng 2 năm 1967 (dự kiến) |
Tên lửa | Saturn IB AS-204 |
Địa điểm phóng | Mũi Kennedy, LC-34 |
Kết thúc nhiệm vụ | |
Phá hủy |
|
Các tham số quỹ đạo | |
Hệ quy chiếu | Địa tâm |
Chế độ | Quỹ đạo Trái Đất tầm thấp |
Cận điểm | 220 kilômét (120 nmi) (dự kiến) |
Viễn điểm | 300 kilômét (160 nmi) (dự kiến) |
Độ nghiêng | 31 độ (dự kiến) |
Chu kỳ | 89,7 phút (dự kiến) |
Từ trái sang phải: White, Grissom, Chaffee ← AS-202 |
Ngay sau trận hỏa hoạn, NASA liền cho thành lập Accident Review Board (tạm dịch là "Ban Điều tra Tai nạn") nhằm xác định nguyên nhân gây cháy, và cả hai viện của Quốc hội Hoa Kỳ cũng chỉ đạo các ủy ban thẩm tra của riêng họ để giám sát cuộc điều tra của NASA. Nguồn cháy được xác định là do chập điện, và ngọn lửa đã lan ra nhanh chóng do vật liệu nylon dễ cháy cũng như môi trường oxy tinh khiết áp suất cao trong cabin. Nỗ lực giải cứu đã bị ngăn chặn do cửa sập của plug door không thể mở được trước áp suất bên trong của cabin. Vì tên lửa không có nhiên liệu nên cuộc thử nghiệm không được coi là nguy hiểm, do đó công tác chuẩn bị tình huống khẩn cấp cho nó là rất kém.
Trong quá trình điều tra của Quốc hội, Thượng nghị sĩ Walter Mondale đã công khai tiết lộ một tài liệu nội bộ của NASA trích dẫn các vấn đề với nhà thầu chính của Apollo là North American Aviation, về sau được biết đến với tên gọi Phillips Report. Việc tiết lộ này khiến Trưởng quản lý NASA James E. Webb xấu hổ, ông không hề hay biết gì về sự tồn tại của tài liệu, và đã gây ra nhiều tranh cãi đối với chương trình Apollo. Bất chấp sự không hài lòng của Quốc hội trước thái độ thiếu cởi mở của NASA, cả hai ủy ban quốc hội đều phán quyết rằng các vấn đề được nêu trong báo cáo không liên quan đến vụ tai nạn.
Nhũng chuyến bay Apollo có người lái đã bị đình chỉ hai mươi tháng trong khi các phần cứng của mô-đun chỉ huy được xử lý. Tuy nhiên, công tác phát triển cũng như các chuyến bay thử không người lái của mô-đun Mặt Trăng (LM) và tên lửa Saturn V vẫn được tiếp tục. Phương tiện phóng Saturn IB của Apollo 1, AS-204, đã được sử dụng trong chuyến bay thử đầu tiên của LM là Apollo 5. Về sau, sứ mệnh Apollo có người lái đầu tiên cũng được thực hiện thành công với phi hành đoàn dự phòng của Apollo 1 trong nhiệm vụ Apollo 7 vào tháng 10 năm 1968.