Đệ Nhất Đế chế Pháp
From Wikipedia, the free encyclopedia
Đệ Nhất đế chế chính thức Cộng hòa Pháp,[lower-alpha 1] sau đó là Đế quốc Pháp (tiếng Pháp: Empire Français; tiếng Latinh: Imperium Francicum) là một chế độ chính trị trong lịch sử nước Pháp, do Napoléon Bonaparte lập ra, để thay thế cho chế độ tổng tài (Consulat). Đệ Nhất đế chế bắt đầu từ ngày 18 tháng 5 năm 1804 - khi có quyết nghị của thượng viện (Sénatus-consulte) tuyên bố tôn Napoléon Bonaparte lên làm hoàng đế nước Pháp và kết thúc vào ngày 6 tháng 4 năm 1814, khi Napoléon thoái vị và phải đi đày sang đảo Elba.
Cộng Hòa Pháp[1]
(1804–1808) République Française Đế quốc Pháp (1808–1815) Empire Français |
|
---|---|
Tên bản ngữ
| |
1804 – 1814 20 tháng 3 1815 – 7 tháng 7 1815 | |
Quốc ca: Chant du Départ (de facto) "Bài ca khởi hành" Veillons au salut de l'Empire Hãy đảm bảo sự cứu rỗi của đế chế (de jure) | |
Vị trí Đệ nhất Đế chế Pháp vào năm 1812.
Lãnh thổ Đế chế Pháp
Quốc gia phụ thuộc
Đế quốc Pháp với quyền sở hữu thuộc địa năm 1812: Đế quốc Pháp và các thuộc địa của nó Các quốc gia vệ tinh và vùng lãnh thổ bị chiếm đóng năm 1812 | |
Tổng quan | |
Vị thế | Đế quốc |
Thủ đô | Paris |
Ngôn ngữ thông dụng | Tiếng Pháp (chính thức) Tiếng Latin (chính thức) |
Tôn giáo chính | Giáo hội Công giáo (Quốc giáo) Chủ nghĩa Lutheran Chủ nghĩa Calvin Do Thái giáo (Tôn giáo thiểu số) |
Chính trị | |
Chính phủ | Quân chủ tuyệt đối đơn nhất dưới độc tài quân sự |
Hoàng đế | |
• 1804 – 1814/1815 | Napoléon I |
• 1815 | Napoléon II (Đang tranh cãi)[3] |
Lập pháp | Nghị viện |
Thượng viện | |
• Hạ viện | Corps législatif |
Lịch sử | |
Thời kỳ | Các cuộc chiến tranh của Napoléon |
• Hiến pháp năm thứ XII Cộng hòa Pháp | 18 tháng 5 năm 1804 1804 |
2 tháng 12 năm 1804 | |
7 tháng 7 năm 1807 | |
24 tháng 6 năm 1812 | |
• Hòa ước Fontainebleau | 11 tháng 4 năm 1814 |
20 tháng 3 – 7 tháng 7 năm 1815 1815 | |
Địa lý | |
Diện tích | |
• 1812[4] | 2.100.000 km2 (810.815 mi2) |
Dân số | |
• 1812 | 44 triệu[5] |
Kinh tế | |
Đơn vị tiền tệ | Franc Pháp |
Mã ISO 3166 | FR |
Napoléon trở thành Hoàng đế Pháp vào ngày 18 tháng 5 năm 1804. Ông lên ngôi Hoàng đế vào ngày 2 tháng 12 năm 1804. Điều này đã chấm dứt thời gian của Lãnh sự quán Pháp. Ông đã giành được những chiến thắng quân sự sớm trong Chiến tranh Liên minh thứ Ba chống lại Áo, Phổ, Nga, Bồ Đào Nha và các quốc gia đồng minh. Hòa ước Tilsit vào tháng 7 năm 1807 đã kết thúc hai năm đổ máu trên Châu Âu lục địa.
Các cuộc chiến tranh tiếp theo, được gọi là Chiến tranh Napoléon, đã phát triển nước Pháp trên phần lớn Tây Âu và vào Ba Lan. Vào thời điểm lớn nhất vào năm 1812, Đế chế Pháp có 130 căn cứ, cai trị hơn 44 triệu người và có một quân đội lớn ở Đức, Ý, Tây Ban Nha và Công quốc Warsaw. Sự ra đời của Bộ luật Dân sự Pháp thông qua lục địa gia tăng sự bình đẳng pháp lý, tạo ra các hệ thống bồi thẩm đoàn và ly hôn hợp pháp hóa. Napoleon đặt người thân lên ngai vàng của một số nước châu Âu. Ông đã đưa ra nhiều danh hiệu cao quý, hầu hết trong số đó đã biến mất sau khi đế chế sụp đổ.
Napoléon thoái vị vào ngày 11 tháng 4 năm 1814. Đế quốc được đưa trở lại trong thời gian Trăm ngày vào năm 1815 cho đến khi thất bại của Napoléon trong trận Waterloo. Tiếp theo là chế độ quân chủ của Nhà Bourbon.