Tiếng Armenia cổ điển
From Wikipedia, the free encyclopedia
Tiếng Armenia cổ điển (tiếng Armenia: գրաբար, trong cách phát âm tiếng Armenia Đông: Grabar, tiếng Armenia Tây: Krapar; nghĩa là "[ngôn ngữ] văn học"; còn được gọi là tiếng Armenia cổ hoặc tiếng Armenia thiêng liêng) là một dạng được chứng thực cổ nhất của tiếng Armenia. Đây là ngôn ngữ lần đầu tiên được viết vào đầu thế kỉ 5, và tất cả văn học Armenia đến thế kỉ 18 được viết bằng ngôn ngữ này. Ban đầu nhiều bản thảo cổ viết bằng tiếng Hy Lạp cổ đại, tiếng Ba Tư, tiếng Hebrew, tiếng Syriac và tiếng Latinh (chỉ tồn tại trong bản dịch tiếng Armenia).[2]
Tiếng Armenia cổ điển | |
---|---|
Tiếng Armenia cổ | |
Khu vực | Sơn nguyên Armenia |
Phân loại | Ấn-Âu
|
Ngôn ngữ tiền thân | Armenia nguyên thủy
|
Hệ chữ viết | chữ Armenia (bảng chữ cái Armenia cổ điển) |
Mã ngôn ngữ | |
ISO 639-3 | xcl |
Glottolog | clas1249 [1] |
Linguasphere | 57-AAA-aa |
Bài viết này có chứa ký tự ngữ âm IPA. Nếu không thích hợp hỗ trợ dựng hình, bạn có thể sẽ nhìn thấy dấu chấm hỏi, hộp, hoặc ký hiệu khác thay vì kí tự Unicode. Để biết hướng dẫn giới thiệu về các ký hiệu IPA, xem Trợ giúp:IPA. |
Tiếng Armenia cổ điển tiếp tục sử dụng làm một ngôn ngữ thiêng liêng của Giáo hội Tông truyền Armenia và Giáo hội công giáo Armenia và thường được họp bởi các học giả Kinh Thánh, Liên Ước, và Giáo Phụ dành riêng cho nghiên cứu văn bản. Ngôn ngữ này cũng quan trọng cho việc phục dựng tiếng Ấn-Âu nguyên thủy.