Thành viên:Linh Comer/Nháp/12
From Wikipedia, the free encyclopedia
Sinh thái học (từ tiếng Hy Lạp: οἶκος, "nhà" and -λογία, "nghiên cứu về")[A] là chuyên ngành nghiên cứu về mối quan hệ giữa các sinh vật sống (gồm cả con người) và môi trường vật chất của chúng. Sinh thái học xem xét sinh vật ở cấp độ cá thể, quần thể, quần xã, hệ sinh thái và sinh quyển. Sinh thái học có phần trùng lặp với các ngành khoa học liên hệ mật thiết gồm địa lý sinh học, sinh học tiến hóa, di truyền học, tập tính học và lịch sử tự nhiên. Sinh thái học là một phân ngành của sinh học và khác với chủ nghĩa môi trường.
Sinh thái học chuyên nghiên cứu một số lĩnh vực gồm: quy trình sống, chống mỏng manh, các tương tác và tính thích nghi; chuyển động của vật chất và năng lượng thông qua những quần xã sống; sự phát triển diễn thế của các hệ sinh thái; sự hợp tác, cạnh tranh và săn mồi bên trong và giữa các loài; độ phong phú, sinh khối loài và phân bố sinh vật trong hoàn cảnh môi trường; những mô hình đa dạng sinh học và tác động của nó lên các quá trình hệ sinh thái.
Sinh thái học mang những ứng dụng thực tiễn trong sinh học bảo tồn, quản lý đất ngập nước, quản lý tài nguyên thiên nhiên (sinh thái học nông nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp, nông lâm kết hợp, thủy sản), quy hoạch thành phố (sinh thái đô thị), sức khỏe cộng đồng, kinh tế, khoa học cơ bản và ứng dụng, tương tác của xã hội loài người (sinh thái nhân văn). Từ "sinh thái học" ("Ökologie") được đưa ra vào năm 1866 bởi nhà khoa học người Đức Ernst Haeckel, và nó đã trở thành một môn khoa học tự nhiên chặt chẽ vào cuối thế kỷ 19. Những khái niệm tiến hóa liên quan tới thích nghi và chọn lọc tự nhiên là những nền tảng của lý thuyết sinh thái hiện đại.
Hệ sinh thái là những hệ thống sinh vật tương tác động, quần xã mà chúng tạo nên và các thành phần không sống trong môi trường của chúng. Các quá trình của hệ sinh thái (chẳng hạn như sản lượng sơ cấp, chu trình dinh dưỡng và thiết kế ổ) điều chỉnh dòng năng lượng và vật chất thông qua một môi trường. Hệ sinh thái mang những cơ chế lý sinh học giúp tiết chế các quá trình tác động lên thành phần sống và không sống của hành tinh. Hệ sinh thái duy trì các chức năng hỗ trợ sự sống và cung cấp những dịch vụ hệ sinh thái như sản phẩm sinh khối (thực phẩm, nhiên liệu, sợi và thuốc), điều hòa khí hậu, chu trình sinh địa hóa toàn cầu, lọc nước, cải tạo đất, không chế xói mòn, chống lũ và nhiều đặc điểm tự nhiên khác có giá trị khoa học, lịch sử, kinh tế hoặc nội tại.