Thành viên:Lavignees/Holocaust ở Ba Lan
From Wikipedia, the free encyclopedia
Cuộc diệt chủng ở Ba Lan là giai đoạn cuối cùng và chết người nhất của Đức Quốc Xã qua "Giải pháp cuối cùng của vấn đề Do Thái" (Endlösung der Judenfrage) cùng với những trại chết người trên đất Ba Lan. Cuộc thảm sát được phê chuẩn và thi hành chính thức bởi Đệ Tam Đế Chế trong Chiến tranh thế giới thứ hai, hay còn được biết đến với tên gọi Holocaust, đã tước đi mạng sống của khoảng 3,000,000 người Do Thái Ba Lan và tương tự như với người Ba Lan, không tính đến những mất mát trong cộng đồng Ba Lan thiểu số.[8] Trại hành quyết đóng vai trò trung tâm trong việc sát hại hơn 90% dân số Do Thái-Ba Lan của Đệ nhị Cộng hòa Ba Lan.[9]
Từ trên xuống theo chiều kim đồng hồ: Khu biệt lập Warsaw bốc cháy, tháng 5/1943 • Einsatzgruppe sát hại phụ nữa từ Mizocz Ghetto, 1942 • Quá trình tuyển chọn để đưa người vừa mới tới sang phòng gây ngạt tại Auschwitz-II Birkenau • Người Do Thái bị bắt trong cuộc Nổi dậy ở khu biệt lập Warsaw được đưa đến Umschlagplatz bởi nhóm Waffen SS • Những đứa trẻ ở Khu biệt lập Łódź bị trục xuất tới Trại hủy diệt Chełmno, 1942 | |
Bản đồ cuộc diệt chủng ở Ba Lan trong Chiến tranh Thế giới thứ 2 với 6 trại hủy diệt được đánh dấu bằng hình đầu lâu trắng và ô vuông đen: Auschwitz-Birkenau, Bełżec, Chełmno, Majdanek, Sobibór and Treblinka; cũng như những nơi hành quyết tập thể ở Bronna Góra, Ponary, Połonka và nhiều nơi khác. Bằng Ngôi sao David là những thành phố lớn của Ba Lan với những khu biệt lập tử thần. Những đường màu đỏ là biên giới giữa Đức và Liên Xô – nơi xảy ra chiến dịch Barbarossa vào năm 1941. | |
Toàn cảnh | |
---|---|
Thời gian | 9/1939-4/1945 |
Phạm vi | Vùng Ba Lan bị chiếm đóng, ngày nay là Tây Ukraine và Tây Belarus |
Thủ phạm | |
Đơn vị | SS-Totenkopfverbände, Einsatzgruppen, Orpo battalions, Trawnikis, BKA, OUN-UPA, TDA, Ypatingasis būrys[1][2][3] |
Bị sát hại | 3,000,000 người Do thái Ba Lan và 2,500,000 người Ba Lan [4] |
Sống sót | 50,000–120,000;[5] hoặc 210,000–230,000;[6] hay a tổng cộng 350,000.[7] |
Kháng chiến có vũ trang | |
Những cuộc nổi dậy của người Do Thái | Będzin, Białystok, Birkenau, Częstochowa, Łachwa, Łuck, Mińsk Mazowiecki, Mizocz, Pińsk, Poniatowa, Sobibór, Sosnowiec, Treblinka, Warsaw, Wilno |
Mọi bợ phận quan liêu tinh vi của Đức đều tham gia vào quá trình giết chóc, từ Bộ Nội vụ và Bộ Tài chính,cho đến các công ty Đức và các daon2 tàu của nhà nước được sử dụng để trục xuất người Do Thái.[10][11] Các công ty Đức đấu thầu các hợp đồng xây dựng nhà hỏa táng trong các trại tập trung do Đức Quốc Xã điều hành trong Chính phủ cũng như các phần khác của Ba Lan bị chiếm đóng và hơn thế nữa.[9][12]
Trong suốt thời gian chiếm đóng của Đức, có nguy cơ lớn đối với bản thân và gia đình, nhiều người Ba Lan đạo Cơ Đốc đã thành công trong việc cứu người Do Thái khỏi Đức Quốc Xã. Theo quốc tịch, Ba Lan chiếm nhiều nhất trong việc giải cứu người Do Thái khỏi cuộc diệt chủng.[5][13] Được Nhà nước Israel công nhận, Người dân ngoại công chính gồm 6,706 người Ba Lan, nhiều hơn bất kì quốc gia nào.[13] Một số lượng nhỏ người Do Thái Ba Lan đã cố sống sót trong cuộc chiến trong vùng bị chiếm đóng hoặc trốn thoát thành công tới phía đông vùng lãnh thổ bị Liên Xô chiếm đóng năm 1939,[14] khoảng 1,000,000 người Ba Lan không phải Do Thái chỉ bị trục xuất làm lao động khổ sai ở Siberia cùng với gia đình.[15][16]