Quân đoàn II (Việt Nam Cộng hòa)
From Wikipedia, the free encyclopedia
Quân đoàn II là một đơn vị cấp Quân đoàn, được tổ chức hỗn hợp gồm cả Hải quân - Lục quân - Không quân. Đây là quân đoàn thành lập thứ nhì và là một trong bốn quân đoàn chủ lực của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Trong thời gian tồn tại của mình, Quân đoàn II có nhiệm vụ kiểm soát một vùng lãnh thổ có diện tích rộng lớn và địa hình phức tạp nhất so với 3 quân đoàn còn lại, gồm 7 tỉnh thuộc khu vực Cao nguyên Trung phần: Kontum, Pleiku, Phú Bổn, Darlac, Quảng Đức, Tuyên Đức và Lâm Đồng; 5 tỉnh thuộc vùng duyên hải nam Trung phần: Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận và Đặc khu Cam Ranh. Đặc biệt, vùng cao nguyên là đầu cầu của tuyến đường Trường Sơn, tuyến tiếp vận chiến lược của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cho những người Cộng sản miền Nam, vì vậy hầu hết trận đánh lớn giữa lực lượng Quân đội nhân dân Việt Nam và Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam với quân đội Mỹ và đồng minh diễn ra trên địa bàn của quân đoàn II. Ngày 10 tháng 3 năm 1975, Quân đội nhân dân và Quân Giải phóng nổ súng tấn công thị xã Ban Mê Thuột, mở đầu Chiến dịch Tây Nguyên. Trước sức ép của đối phương, cùng với cuộc tháo chạy thảm họa trên đường số 7, chỉ trong 10 ngày, 75% lực lượng của Quân đoàn II hoàn toàn tan vỡ,[1] không còn thực sự hiện hữu như là một lực lượng chiến đấu tương xứng với quy mô của nó nữa.[2]
Bài này không có nguồn tham khảo nào. |
QUÂN ĐOÀN II Việt Nam Cộng hòa | |
---|---|
Huy hiệu | |
Hoạt động | 1957–1975 |
Quốc gia | Việt Nam Cộng hòa |
Phục vụ | Quân lực Việt Nam Cộng hòa |
Quân chủng | Hỗn hợp |
Phân loại | Chủ lực Quân khu |
Quy mô | Quân đoàn |
Bộ phận của | Bộ Tổng Tham mưu |
Bộ chỉ huy | Pleiku, Việt Nam Cộng hòa |
Khẩu hiệu | Thắng không kiêu – Bại không nản |
Tham chiến | Trận Mậu Thân Mùa hè đỏ lửa Chiến cuộc 1975 |
Các tư lệnh | |
Chỉ huy nổi tiếng | Tôn Thất Đính Nguyễn Khánh Đỗ Cao Trí Nguyễn Hữu Có Vĩnh Lộc Lữ Lan Ngô Dzu Nguyễn Văn Toàn Phạm Văn Phú |
Huy hiệu | |
Kỳ hiệu |