Quân đoàn Ba Lan trong Thế chiến I
From Wikipedia, the free encyclopedia
Quân đoàn Ba Lan (tiếng Ba Lan: Legiony Polskie) là tên của lực lượng quân đội Ba Lan [1] được thành lập vào tháng 8 năm 1914 tại Galicia ngay sau khi Chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra giữa một bên là các quốc gia thuộc Phe Hiệp ước (gồm Đế quốc Anh, Cộng hòa Pháp và Đế quốc Nga); và các cường quốc thuộc Phe Liên minh ở phía bên kia, bao gồm Đế quốc Đức và Áo-Hungary.[2] Quân đoàn đã trở thành "nền tảng huyền thoại cho việc tạo ra đất nước Ba Lan hiện đại" mặc dù tồn tại rất ngắn ngủi [1]; họ được thay thế bởi Quân đoàn phụ trợ Ba Lan (tiếng Ba Lan: Polski Korpus Posiłkowy) thành lập ngày 20 tháng 9 năm 1916, rồi sáp nhập với Quân đoàn Ba Lan II tại Nga vào ngày 19 tháng 2 năm 1918 trong Trận Rarańcza chống lại đế quốc Áo-Hung, và tan rã sau thất bại tại Trận Kaniów vào tháng 5 năm 1918, trước đế quốc Đức. Tướng Haller đã trốn sang Pháp, thành lập quân đội Ba Lan ở phía Tây chống lại hiệp ước Đức-Bolshevik.[3]
Quân đoàn Ba Lan đã tham gia nhiều trận chiến chống lại lực lượng của Đế quốc Nga, cả ở Galicia và dãy núi Carpathian. Họ đã phải gánh chịu thương vong khủng khiếp nhiều gấp ba lần địch trong trận Łowczówek. Sau đó, họ chiếm được Kielce, rồi tham gia vào cuộc tấn công Warsaw vào năm 1915. Vào tháng 6 năm 1916, đơn vị có khoảng 25.000 binh sĩ.[1] Cả quân số và thành phần các đơn vị đều thay đổi nhanh chóng. Sau Trận Kostiuchnówka, nơi 2.000 binh sĩ Ba Lan chết khi đang cản bước quân Nga, Józef Piłsudski đã yêu cầu các nước phe Liên minh phải đảm bảo độc lập cho Ba Lan và ông đã thành công một phần.[4] Sau đó, quân đoàn Ba Lan trở thành quân đoàn phụ trợ Ba Lan. Sau Đạo luật ngày 5 tháng 11 năm 1916 về việc tuyên bố thành lập Vương quốc Ba Lan bù nhìn năm 1916–1918, quân đoàn Ba Lan được chuyển giao dưới quyền chỉ huy của Đức. Tuy nhiên, hầu hết các thành viên từ chối thề trung thành với Đức Kaiser và bị thực tập tại Beniaminów và Szczypiorno (cuộc khủng hoảng Lời thề). Khoảng 3.000 người trong số họ đã được biên chế vào quân đội Áo-Hung và được gửi đến Mặt trận Ý, trong khi khoảng 7.500 người ở lại Quân đoàn phụ trợ Ba Lan, trở thành một phần của lực lượng Vũ trang Ba Lan thuộc Đức.