Nghị định thư Kyōto
From Wikipedia, the free encyclopedia
Nghị định thư Kyōto là một nghị định liên quan đến Công ước khung Liên Hợp Quốc về Biến đổi khí hậu tầm quốc tế của Liên Hợp Quốc với mục tiêu cắt giảm lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính. Bản dự thảo được ký kết vào ngày 11 tháng 12 năm 1997 tại Hội nghị các bên tham gia lần thứ ba khi các bên tham gia họp nhóm tại Kyōto, và chính thức có hiệu lực vào ngày 16 tháng 2 năm 2005.
Bài viết này cần thêm chú thích nguồn gốc để kiểm chứng thông tin. |
Tên đầy đủ:
| |
---|---|
Các quốc gia phụ lục B với những mục tiêu ràng buộc trong giai đoạn hai Các quốc gia phụ lục B với những mục tiêu ràng buộc trong giai đoạn một chứ không phải hai Các quốc gia không thuộc phụ lục B, không có mục tiêu ràng buộc Các quốc gia phụ lục B với những mục tiêu ràng buộc trong giai đoạn một nhưng đã rút khỏi Nghị định thư Các bên ký kết Nghị định thư nhưng chưa thông qua Các quốc gia thành viên LHQ khác và các quan sát viên mà không là thành viên của Nghị định thư | |
Kyoto Protocol tại Wikisource |
Tên đầy đủ:
| |
---|---|
Chấp nhận Bản sửa đổi Doha | |
Doha Amendment to the Kyoto Protocol tại Wikisource |
Kể từ tháng 9 năm 2011 đã có khoảng 191 nước ký kết tham gia chương trình này. Trong đó có khoảng 36 nước phát triển (với liên minh châu Âu được tính là một) được yêu cầu phải có hành động giảm thiểu khí thải nhà kính mà họ đã cam kết cụ thể trong nghị trình (lượng khí này chiếm hơn 61,6% của lượng khí của nhóm nước Phụ lục I[2][3] cần cắt giảm). Nghị định thư cũng được khoảng 137 nước đang phát triển tham gia ký kết trong đó gồm Brasil, Trung Quốc và Ấn Độ nhưng không chịu ràng buộc xa hơn các vấn đề theo dõi diễn biến và báo cáo thường niên về vấn đề khí thải.
Bên cạnh đó cũng còn nhiều tranh cãi xung quanh mức độ hiệu quả của nghị định này giữa các chuyên gia, khoa học gia và những nhà hoạt động môi trường. Một vài nghiên cứu về phí tổn bỏ ra nhằm hậu thuẫn cho sự thành công của nghị định cũng đã được quan tâm tiến hành.