Mông Cổ thuộc Thanh
From Wikipedia, the free encyclopedia
Mông Cổ thuộc Thanh (chữ Hán: 清代蒙古), còn gọi là Mông Cổ Minh kỳ (蒙古盟旗), là sự cai trị của nhà Thanh của Trung Quốc trên thảo nguyên Mông Cổ, bao gồm cả bốn aimag ở vùng Ngoại Mông và 6 liên minh ở vùng Nội Mông từ thế kỷ 17 đến cuối triều đại. "Mông Cổ" ở đây được hiểu theo nghĩa lịch sử rộng lớn hơn. Khagan cuối cùng Ligden chứng kiến sức mạnh của mình bị suy yếu trong những cuộc chinh chiến với các bộ lạc Mông Cổ và bị đánh bại bởi người Mãn Châu, ông qua đời ngay sau đó. Con trai của ông, Ejei Khan, đã cho Hoàng Thái Cực quyền lực hoàng gia, chấm dứt chế độ triều đại Bắc Nguyên, quyền lực nhà Thanh được tập trung tại Nội Mông vào năm 1635. Tuy nhiên, nhóm người Khalkha (Khách Nhĩ Khách) ở Ngoại Mông vẫn tiếp tục cai trị cho đến khi họ bị tấn công bởi Hãn quốc Chuẩn Cát Nhĩ vào năm 1690, đến triều nhà Thanh vào năm 1691.
Mông Cổ thời Thanh trị 清代蒙古 | ||||||
Vùng của Nhà Thanh | ||||||
| ||||||
| ||||||
Ngoại Mông và Nội Mông năm 1820 | ||||||
Thủ đô | Uliastai (Ngoại Mông)[1] Hohhot (Nội Mông) | |||||
Chính phủ | Hệ thống cấp bậc nhà Thanh | |||||
Lập pháp | Khalkha jirum | |||||
Lịch sử | ||||||
- | Ngạch Triết Hãn của nhà Bắc Nguyên đầu hàng. | 1635 | ||||
- | Sự đầu hàng của người Khách Nhĩ Khách phía bắc | 1691 | ||||
- | Ngoại Mông tuyên bố độc lập | tháng 12 năm 1911 | ||||
- | Giải thể | 1912 | ||||
Triều đại nhà Thanh do nhà cầm quyền Mãn Châu đã cai trị Nội Mông và Mông Cổ trong hơn 200 năm. Trong thời kỳ này, nhà cầm quyền Thanh đã thành lập các cơ chế hành chính riêng để quản lý từng khu vực. Trong khi đế chế duy trì sự kiểm soát vững chắc ở cả nội địa lẫn bên ngoài Mông Cổ, thì Mông Cổ bên ngoài thủ đô Bắc Kinh có nhiều quyền tự chủ hơn[2], và giữ lại ngôn ngữ và văn hoá của họ trong thời kỳ này.[3]