Karl Friedrich xứ Baden
From Wikipedia, the free encyclopedia
Karl Friedrich xứ Baden (tiếng Đức: Karl Friedrich von Baden; 22 tháng 11 năm 1728 - 10 tháng 6 năm 1811[1]), là một nhà cai trị thế tục của Đế chế La Mã Thần thánh, từ năm 1771 đến 1803, ông giữ vị trí là Phiên địa bá tước xứ Baden, từ năm 1803 đến khi Thánh chế La Mã tan rã (1806), địa vị của ông được nâng lên thành Tuyển hầu, từ năm 1806 đến khi qua đời vào năm 1811, lãnh thổ của ông được nâng lên thành Đại công quốc Baden, vì thế tước vị cuối cùng của ông là Đại công tước.
Karl Friedrich | |
---|---|
Được vẽ bởi Johann Ludwig Kisling, 1803 | |
Đại công tước Baden | |
Tại vị | 25 tháng 7 năm 1806 - 10 tháng 6 năm 1811 |
Kế nhiệm | Karl Ludwig Friedrich |
Tuyển hầu Baden | |
Tại vị | 27 tháng 4 năm 1803 - 6 tháng 8 năm 1806 |
Phiên bá tước Baden-Baden (thống nhất) | |
Tại vị | 21 tháng 10 năm 1771 - 27 tháng 4 năm 1803 |
Tiền nhiệm | August Georg Simpert xứ Baden |
Phiên hầu tước Baden-Durlach | |
Tại vị | 12 tháng 5 năm 1738 - 21 tháng 10 năm 1771 |
Tiền nhiệm | Karl III Wilhelm xứ Baden-Durlach |
Thông tin chung | |
Sinh | (1728-11-22)22 tháng 11 năm 1728 |
Mất | 10 tháng 6 năm 1811(1811-06-10) (82 tuổi) |
Phối ngẫu | Karoline Luise xứ Hessen-Darmstadt Luise Karoline xứ Hochberg |
Hậu duệ | Đại công tử thừa kế Karl Ludwig Đại công tử Friedrich Đại công tử Ludwig Đại công nữ Louise Auguste Đại công tử Leopold Đại công tử William Đại công tử Frederick Alexander Đại công nử Amalie Đại công tử Maximilian |
Hoàng tộc | Zähringen |
Thân phụ | Friedrich xứ Baden-Durlach |
Thân mẫu | Anna Charlotte Amalie xứ Nassau-Dietz-Oranien |
Tôn giáo | Tin Lành |
Karl là một người tham vọng, ông đã thống nhất 2 phiên hầu quốc Baden-Durlach và Baden-Baden sau hàng thế kỷ chia tách bởi các dòng khác nhau của Nhà Zähringen. Ông tìm cách mở rộng thêm lãnh thổ xung quanh thông qua việc liên minh với Nhà Habsburg-Lorraine của Áo chống lại Cách mạng Pháp, sau đó trở giáo chiến đấu bên cạnh Hoàng đế Napoleon của Đệ Nhất Đế chế Pháp, cũng chính vị hoàng đế này nâng ông lên vị trí Tuyển đế hầu vào năm 1803 và ban thưởng cho Baden nhiều đất đai. Năm 1806, Franz II của Thánh chế La Mã tuyên bố chấm dứt sự tồn tại của Đế chế La Mã Thần thánh, các Bang của đế chế, trong đó có Tuyển hầu quốc Baden tuyên bố trở thành những nhà cai trị có chủ quyền. Đại công tước Karl qua đời vào năm 1811, nên không thể thấy sự sụp đổ của Napoleon và Đế chế Pháp bốn năm sau đó.
Năm 10 tuổi, ông được thừa kế ngôi Bá tước xứ Baden-Durlach từ ông nội, lãnh thổ này có diện tích 1.631 km2, đến năm 1771, sau cái chết của August Georg Simpert, Bá tước xứ Baden-Baden, mà không để lại người thừa kế, nên Karl đã được thừa kế thêm 140,18 km2 lãnh thổ của Baden-Baden, ông chính thức hợp nhất 2 bá quốc sau 235 năm chia cắt, không dừng lại ở đó, trong suốt 73 năm cai trị của mình ông đã mở rộng lãnh thổ lên gấp 13,3 lần, cho đến khi ông qua đời độ rộng lớn của nó đã đạt 15.082 km2. Đây là kết quả của sự khôn ngoan của ông trong ngoại giao và liên minh. Ông cũng là một nhà cái trị hiếm có trong lịch sử 1000 năm của Đế chế La Mã Thần thánh, vì ông đã trải qua 5 tước vị quân chủ trong suốt cuộc đời của mình, lúc đầu là Bá tước cai trị xứ Baden-Durlach, sau được thừa kế và nhận thêm tước vị Bá tước xứ Baden-Baden, hai bá quốc Baden-Durlach và Baden-Baden được hợp nhất nên ông trở thành Bá tước xứ Baden, sau đó Baden được nâng lên Tuyển đế hầu và cuối cùng được nâng lên Đại công tước xứ Baden. Ông giữ ngôi vị trong 73 năm và sống thọ đến 83 tuổi, nên ông trở thành một trong những vị quân chủ nắm giữ ngai vàng lâu nhất trong lịch sử thế giới, lâu hơn cả Vua Louis XIV của Pháp hay Elizabeth II của Anh.