Giáo hoàng Gioan Phaolô II
lãnh đạo Giáo hội Công giáo và Thành Vatican từ năm 1978 cho đến khi ông qua đời năm 2005 / From Wikipedia, the free encyclopedia
Gioan Phaolô II (hay Gioan Phaolô Đệ Nhị; tiếng Latinh: Ioannes Paulus II; tên khai sinh: Karol Józef Wojtyła, phát âm tiếng Ba Lan: [ˈkarɔl ˈjuzɛv vɔjˈtɨwa] ⓘ ; 18 tháng 5 năm 1920 – 2 tháng 4 năm 2005) là vị giáo hoàng thứ 264 của Giáo hội Công giáo Rôma và là người lãnh đạo tối cao của Vatican kể từ ngày 16 tháng 10 năm 1978. Cho đến khi qua đời, giáo triều của ông đã kéo dài hơn 26 năm và trở thành triều đại Giáo hoàng dài thứ hai trong lịch sử giáo hội Công Giáo, sau triều đại dài 32 năm của Giáo hoàng Piô IX. Cho đến hiện tại, ông là vị Giáo hoàng duy nhất người Ba Lan và là vị Giáo hoàng đầu tiên không phải người Ý trong gần 500 năm, kể từ Giáo hoàng Ađrianô VI năm 1520.[1] Ông được tạp chí TIME bình chọn là một trong bốn người có ảnh hưởng lớn nhất thế kỷ 20.[2] và cả những năm đầu thế kỷ 21.
Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II | |
---|---|
Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II năm 1984 | |
Tựu nhiệm | 16 tháng 10 năm 1978 |
Bãi nhiệm | 2 tháng 4 năm 2005 26 năm, 168 ngày |
Tiền nhiệm | Giáo hoàng Gioan Phaolô I |
Kế nhiệm | Giáo hoàng Biển Đức XVI |
Thông tin cá nhân | |
Tên khai sinh | Karol Józef Wojtyła |
Sinh | (1920-05-18)18 tháng 5 năm 1920 Wadowice, Kraków, Ba Lan |
Mất | 2 tháng 4 năm 2005(2005-04-02) (84 tuổi) Điện Tông tòa, Thành Vatican |
Chữ ký | |
Huy hiệu | |
Các giáo hoàng khác lấy tông hiệu Gioan Phaolô |
Trong triều đại của mình, Giáo hoàng Gioan Phaolô II không ngừng mở rộng ảnh hưởng của Giáo hội Công giáo trong Thế giới thứ ba. Ông đã thực hiện rất nhiều chuyến công du hơn 129 quốc gia,[3] ông có thể nói được hơn 10 ngôn ngữ, ngoài tiếng Ba Lan còn nói được tiếng Ý, tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Nga và có thể nói được một chút tiếng tiếng Việt.
Trong khi tại vị, ông đã lên tiếng phản đối chiến tranh, chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa cộng sản, chế độ độc tài, chủ nghĩa duy vật, các phương pháp phá thai, cách thức chết êm dịu và ủng hộ hòa bình. Ông cũng được coi là một trong những nguồn lực dẫn đến sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản ở Ba Lan và Đông Âu[1][2][3][4][5][6][7][8].
Ngài là vị giáo hoàng đầu tiên công khai xin lỗi về những lỗi lầm của Giáo hội trong quá khứ; tổng cộng hơn 100 lần về những hành động sai trái của Giáo hội Công giáo[9][10][11][12] trong đó có sự kiện xưng thú 7 tội của Giáo hội trước đám đông tại quảng trường Thánh Phêrô vào ngày 12 tháng 3 năm 2000[13]. Ngài cũng là vị Giáo hoàng đầu tiên đứng ra hòa giải với Chính thống giáo Đông phương[1] và Do Thái giáo,[1][8][14]; Anh giáo.[1][15]; là vị Giáo hoàng đầu tiên đứng ra tổ chức cuộc gặp gỡ với các lãnh đạo của các tôn giáo khác như Phật giáo, Khổng giáo, Chính thống giáo Đông phương, Do Thái giáo, Cao Đài và Hồi giáo; là vị Giáo hoàng đầu tiên đến thăm một ngôi đền Hồi giáo ở Syria; là vị Giáo hoàng đầu tiên tổ chức ra Ngày Giới trẻ Thế giới hằng năm; và cũng là vị Giáo hoàng đầu tiên đến thăm vùng Thánh Địa Jerusalem[16]. Gioan Phaolô II cũng đã lên tiếng thừa nhận vai trò của thuyết Tiến hóa[17], thuyết Nhật tâm[18], nguồn gốc thế giới theo quan điểm khoa học ngày nay[19], phủ nhận sự hiện hữu của một thiên đường vật chất trên các tầng mây và một địa ngục vật chất nơi con người bị thiêu đốt như trong Thánh kinh miêu tả[20]
Gioan Phaolô II đã được Giáo hoàng Biển Đức XVI phong là Đấng đáng kính ngày 19 tháng 12 năm 2009[21] và phong chân phước ngày 1 tháng 5 năm 2011.[22] Ngài được Giáo hoàng Phanxicô tôn phong hiển thánh vào ngày 27 tháng 4 năm 2014, chỉ 9 năm sau khi Ngài tạ thế. Vì Ngài là người sáng lập ra Đại hội Giới trẻ Thế giới nên Ngài được chọn là một trong những vị quan thầy bảo trợ cho nhiều kỳ đại hội này kể từ năm 2008.